—Cội rễ của dân tộc Trung Hoa và sự nguy hại của lý luận cộng sản—
Tác giả: Kính Tạ Ân
[ChanhKien.org]
(4) Dùng hệ thống tu luyện thăng hoa cao thâm hơn của Phật gia và Đạo gia để bổ sung cho hệ thống tín ngưỡng Nho gia
Hệ thống đề cao đạo đức xã hội căn bản nhất của truyền thống Trung Hoa là lấy lý luận và tín ngưỡng Nho gia làm chủ thể. Cảnh giới cơ bản con người hướng đến là trở thành người con có hiếu, làm trung thần; nếu không được, thì trở thành ẩn sĩ thanh cao trong sạch. Còn cảnh giới lý tưởng nhất là trở thành Thánh nhân.
Với nền tảng toàn bộ xã hội đều phổ cập tín ngưỡng Nho gia này, Đạo gia và Phật gia đã triển hiện ra cho dân tộc Trung Hoa cảnh giới còn cao thâm và tuyệt diệu hơn, tạo thành sự bổ sung cho thể hệ tín ngưỡng Nho gia. Bổ sung như thế nào? Trước tiên là giúp bổ sung từ phương diện nội dung tín ngưỡng, đề cập tới triển hiện ở phạm vi rộng lớn hơn của quy luật thiện ác hữu báo, từ biểu hiện báo ứng trong một đời của bản thân cho tới báo ứng thiện ác của con cháu đời sau trong gia tộc, mở rộng tiếp nữa là báo ứng sinh tử luân hồi, thậm chí càng rộng lớn và xa hơn nữa.
Mặt khác, nó còn bổ sung từ phương diện thực hành đạo đức. Mục đích tu luyện của Phật gia và Đạo gia là muốn giải thoát khỏi thống khổ sinh tử luân hồi. Cái “giải thoát khỏi thống khổ sinh tử luân hồi” này biểu hiện trên bề mặt chỉ là vấn đề tuổi thọ, có vẻ không liên quan gì đến đạo đức, nhưng về bản chất thì vẫn là vấn đề thực hành đạo đức. Bởi lẽ chiểu theo những lời dạy bảo của Đạo gia và Phật gia, vì để đạt được sự giải thoát khỏi thống khổ sinh tử luân hồi, cần phải lấy tiêu chuẩn cao hơn, phương thức nghiêm khắc hơn để hoàn thành việc đề cao tâm tính đạo đức, phải đạt được tiêu chuẩn không màng danh lợi, càng thêm chân thành hơn, thiện lương hơn, thuần tịnh hơn nữa, … thì mới có thể đạt được cảnh giới siêu việt khỏi người thường.
Trong văn hóa truyền thống Trung Hoa, tín ngưỡng Nho gia, Đạo gia, Phật gia tạo thành mối quan hệ hỗ trợ nhau, bổ sung cho nhau. Đạo gia tu Chân, Nho gia quản thế sự, Phật gia tu Thiện. Ba gia này trên phương diện nội dung lý luận thì bổ sung cho nhau, phối hợp với nhau; giống như thân cây, gốc cây và ngọn cây hình thành nên một cái cây hoàn chỉnh; cũng giống như ngó sen, lá sen và hoa sen tạo nên một cây sen hoàn chỉnh, hỗ trợ mà không mâu thuẫn với nhau.
Trong lịch sử Trung Hoa, Đạo, Nho, Phật chỉ dẫn dắt dân chúng và người mang tín ngưỡng tu luyện và đề cao bản thân trong phạm vi của mình. Trên tổng thể họ đều không lấy việc tiêu diệt các tín ngưỡng khác làm nhiệm vụ. Ba gia Đạo, Nho, Phật trong truyền thống Trung Hoa về mặt khách quan tạo nên quan hệ hỗ trợ cho nhau, bổ sung cho nhau. Trong lịch sử tín ngưỡng của thế giới, thì quan hệ bổ sung, hỗ trợ cho nhau này của hệ thống tín ngưỡng Nho, Đạo, Phật của dân tộc Trung Hoa là độc đáo đặc biệt, rất đáng khen.
Điều này khiến lý giải của dân tộc Trung Hoa đối với quy luật “Thiện ác hữu báo” càng cao, tuyệt diệu và tinh thâm hơn, khiến cội rễ “Tín ngưỡng thiện ác hữu báo” của tự thân dân tộc Trung Hoa càng bám sâu và vững chắc hơn.
(5) Hình thành triều đại quan, quốc gia quan và nhân sinh quan xoay quanh hạt nhân và trọng điểm Thiên ý
Trong kết cấu xã hội Trung Quốc truyền thống, những sự việc như triều đại, quốc gia, ngôi vị, quân quyền, bổng lộc quan chức, thọ mệnh, sức khỏe, con cháu v.v. là những việc thu hút sự chú ý của mọi người nhất. Truyền thống Trung Hoa cho rằng hết thảy những thứ ấy, dưới tác dụng của quy luật “Thiện ác hữu báo” và trong bối cảnh “Thần Phật từ bi”, đều được định sẵn từ trước.
Văn hóa Trung Hoa đã lựa chọn cách biểu đạt cô đọng và xúc tích, để đem lịch trình của sinh mệnh trong các thể hệ vũ trụ thiên địa, để phụ trách an bài toàn thể xã hội nhân loại cho tới mỗi cá nhân, từ đó đoái hiện quy luật thiện ác hữu báo, sắp xếp từ trên xuống dưới thể hệ Thần linh ở các tầng thứ, khái quát lại bằng một chữ “Thiên (天)” rất giản đơn, mà lại cực kỳ phong phú, đem sự sắp đặt và ý chí của Thần linh diễn đạt một cách khái quát bằng các từ “Thiên mệnh”, “Thiên ý”.
Như vậy nên phải đối đãi ra sao với Thiên mệnh, Thiên ý đây? Văn minh Trung Hoa cho rằng con người nên “Tận nhân sự dĩ thính thiên mệnh”, nghĩa là đầu tiên phải kính Thiên, thuận Thiên ý, quan sát Thiên mệnh; đồng thời bản thân cũng cần nỗ lực phó xuất cần thiết. Đây chính là cách khái quát chủ yếu về quan hệ giữa “Thiên mệnh” và “sự nỗ lực của con người” trong văn hóa truyền thống của Trung Quốc.
Bởi vì văn hóa truyền thống Trung Hoa đối với cách thức khái quát quan hệ giữa “Thiên mệnh” và “sự nỗ lực của con người”, chính là đem suy nghĩ của con người đối với các vấn đề như vương triều, quốc gia, tiền đồ cá nhân, cho đến việc lý giải những vấn đề như cá nhân nên nỗ lực như thế nào, có thể đạt được không, đối đãi thế nào với thành bại hay được mất, đều có liên kết với phương diện lý giải về những vấn đề như “Thiên, Thiên ý, Thiên mệnh, vận mệnh, vận số”. Điều này trên tổng thể tạo nên cho dân tộc Trung Hoa một loại ý chí tiến thủ tích cực, đồng thời lại có thể giữ thái độ buông bỏ, không màng danh lợi. Bởi thái độ tâm lý này của cộng đồng, tạo thành rất rất nhiều các chủng loại nhân cách có chiều sâu, khiến con người phải cảm thán.
Kỳ thực loại phương pháp tư tưởng này còn mang ý nghĩa quan trọng hơn. Đó là dân tộc Trung Hoa trong các vấn đề quốc gia, chính trị một lần nữa càng củng cố căn cơ của tự thân. Thực chất của phương pháp tư tưởng này là để tư tưởng của con người tại các vấn đề liên quan đến quốc gia và chính trị một lần nữa tập trung vào tín ngưỡng quy luật “Thiện ác hữu báo” và tín ngưỡng cuối cùng vào “sự từ bi của Thần Phật”.
(6) Lấy “kính đức”, “kính tổ” làm trọng tâm của việc truyền thừa trong gia tộc, quan niệm cúng bái trong dòng tộc
Người Trung Quốc coi trọng việc thờ cúng tổ tiên, về phương diện này thì tương đối nổi bật so với các nền văn minh khác trên thế giới. Việc thờ cúng tổ tiên, thì quan trọng nhất, dù là hữu ý hay vô ý, là đức hạnh và thành tựu của các vị tổ tiên, cần phải tóm lược lại những thành tựu lớn lao và đức hạnh tốt đẹp của tổ tiên, đặc biệt kính trọng và ngưỡng mộ họ, cố gắng truyền lại cho con cháu các đời sau.
Phương thức thờ cúng này khiến nhận thức và ký ức của dân tộc Trung Hoa về “Thiện ác hữu báo” càng thêm tươi mới và tường tận hơn. Nó thể hiện hoàn chỉnh nhận thức của dân tộc Trung Hoa về việc “quy luật thiện ác hữu báo chắc chắn có tác động đến bản thân, cũng ảnh hưởng đến con cháu”, làm vững chắc hơn nữa nhận thức này; vì quan niệm này gắn liền với lịch sử của mỗi gia tộc, cho nên càng toàn diện hơn.
Phương thức thờ cúng này thúc đẩy các gia tộc Trung Hoa càng chú trọng hơn đến đạo hiếu và tu dưỡng đạo đức, giáo dục gia phong trong dòng tộc. Nó cũng thúc đẩy mỗi cá nhân đều phải vì đạo hiếu, gia tộc và vinh dự, tất phải chú ý đến tu dưỡng đạo đức của bản thân; cũng từ góc độ của mỗi cá nhân mà thúc đẩy hơn nữa các gia tộc chú ý tới giáo dục gia phong của gia tộc mình.
Loại tư tưởng và phương thức thờ cúng này cũng thúc đẩy bản thân các vương triều phải kiểm điểm và ước thúc bản thân. Bởi vì vương triều thực ra cũng là truyền lại trong dòng họ, khác biệt duy nhất chính là phúc đức lớn mà tổ tiên tích lũy được, ban cho gia tộc đó hiện nay nắm được vương quyền mà thôi. Tất nhiên họ cũng phải tuân theo quy luật “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”, nếu như không coi trọng đức thì cũng mất đi thiên hạ.
Tóm lại, bất kể là trong hoàng tộc hay trong dân chúng, việc thờ cúng tổ tiên không chỉ để truyền lại huyết thống, gia phả của tổ tiên, đây chỉ là biểu hiện bề mặt về thờ cúng trong gia tộc; mục đích sâu hơn bên trong là kính trọng, ngưỡng mộ, học tập và bảo trì đức hạnh cao quý của tổ tiên. Đó mới chính là nội hàm chân chính của truyền thống thờ cúng tổ tiên. Điều này chính là đang thúc đẩy dân tộc Trung Hoa khiến cho cội rễ của mình càng sâu dày, càng vững chắc hơn nữa.
Tác giả: Kính Tạ Ân
[Chanhkien.org]
IV. Vì sao văn hóa Trung Hoa bác đại tinh thâm như thế, truy nguyên nguồn gốc và bản chất văn hóa Trung Hoa
1) Văn hóa Trung Hoa được Thần truyền thụ, nó thuộc về văn hóa Thần truyền
Nền văn hóa truyền thống của dân tộc Trung Hoa đã trải qua lịch sử lâu đời suốt 5.000 năm kéo dài đến tận ngày nay. Đây là may mắn của dân tộc Trung Hoa, và cũng là niềm tự hào của dân tộc này. Trên thực tế, lịch sử thực sự của văn hóa truyền thống Trung Hoa còn lâu đời hơn rất nhiều so với con số 5.000 năm. Vậy thì nguồn gốc và cội rễ của văn hóa Trung Hoa đến từ đâu? Tại sao nó lại bác đại tinh thâm như vậy? Và tại sao nó lại chứa đựng những nhân tố làm vững chắc nền tảng của chính mình? Tại sao nó lại hàm chứa trí tuệ lớn lao, sâu xa và thâm hậu đến thế?
Dưới ảnh hưởng của thời đại ngày nay, hiện có một câu trả lời rất phổ biến trả lời cho những câu hỏi như thế này, rằng “đó là sự kết tinh trí tuệ của nhân dân lao động”. Dường như câu trả lời này có thể giải thích cho sự ra đời của bất kỳ nền văn hóa nào, kể cả văn hóa Trung Hoa. Nhưng liệu câu trả lời này có đúng không? Kỳ thực đối với văn hóa Trung Hoa, câu trả lời này rất không chính xác, hoàn toàn sai. Mặc dù nền văn hóa của xã hội nhân loại xác thực cần được học hỏi, nắm bắt, biểu đạt và truyền thừa thông qua đại não người, hơn nữa trong quá trình này, con người phải thực sự lao động bằng trí óc và lao động chân tay, nhưng đối với văn hóa Trung Hoa, thì không thể dùng câu nói “sự kết tinh trí tuệ của nhân dân lao động” để khái quát được.
Lấy Đạo Đức Kinh làm ví dụ, đây là một trong những viên minh châu được đặt trên vương miện của văn hóa Trung Hoa. Ở Trung Quốc, hơn 2.000 năm qua, những chú giải và nghiên cứu về Đạo Đức Kinh của các học giả qua các thời kỳ là nhiều vô số kể. Cho đến nay, Đạo Đức Kinh đã được dịch ra hàng chục ngôn ngữ trên toàn thế giới. Trí tuệ cao thâm mà quyển sách này chứa đựng, đến bây giờ vẫn được nhiều người kính ngưỡng, luôn mang lại sự khai sáng, dẫn dắt cho nhiều triết gia, nhà khoa học, nhà tư tưởng, chính trị gia, v.v. Vì vậy, sự ra đời của cuốn sách này rất kỳ diệu, và trí tuệ chứa đựng trong đó vô cùng bác đại tinh thâm. Điều này đặt ra một câu hỏi: Nếu quyển sách này là “kết tinh trí tuệ của nhân dân lao động”, vậy thì nó thuộc về người nào, là ai trong số những người lao động? Tại sao những người lao động này, những người dân này lại có trí tuệ bác đại tinh thâm đến mức khiến các thế hệ sau không ngừng nghiên cứu và ngưỡng mộ? Họ thực sự là ai? Vì vậy, ít nhất sự ra đời của Đạo Đức Kinh không thể chỉ gói gọn và khái quát bằng một câu nói “kết tinh trí tuệ của nhân dân lao động”.
Trên thực tế, “sự kết tinh trí tuệ của nhân dân lao động” hoàn toàn không thể giải đáp cho câu hỏi về nguồn gốc và sự xuất hiện của văn hóa, mà chỉ tuân theo một phương pháp phân tích giai cấp. Bản chất của phương pháp này là do con người phân chia toàn bộ xã hội thành “nhân dân lao động” và “giai cấp thống trị” một cách có chủ ý, rồi cho rằng những thành tựu văn minh ở mỗi giai đoạn của xã hội loài người đều do nhân dân lao động làm nên. Cách nói này vốn dĩ không cung cấp thông tin thực chất, bởi vì khái niệm “nhân dân lao động” rất mơ hồ. Ngay cả các tể tưởng, đại thần thời xưa hay các tổng giám đốc, quản lý cấp cao trong các doanh nghiệp ngày nay đều có yếu tố phục vụ nhà vua, phục vụ cổ đông của doanh nghiệp. Vì vậy, câu nói “kết tinh trí tuệ của nhân dân lao động” luôn “đúng ở mọi hoàn cảnh”, dường như vĩnh viễn đúng đắn, nhưng thực chất lại chẳng nói lên điều gì cả. Thực ra, nó chỉ đơn thuần bị ràng buộc bởi định kiến về “đấu tranh giai cấp” và “phân tích giai cấp”, do đó nó chỉ là một cách nói lừa mình dối người mà thôi.
Căn cứ vào cách diễn đạt của văn hóa Trung Hoa, cội nguồn của nền văn hóa đến từ sự truyền dạy của Thần linh, thuộc về văn hóa Thần truyền. Văn hóa Trung Hoa tin vào đạo lý căn bản là “thiên nhân hợp nhất”, cho rằng vũ trụ là một trạng thái sinh mệnh liên tục, gồm nhiều tầng thứ, từ trên xuống dưới. Nói cách khác, trên trời có Thần và Phật; từ các vị Thần Phật trên trời hướng xuống dưới, mãi cho đến chúng sinh ở mặt đất, tất cả tạo thành một hệ thống sinh mệnh liên tục. Vì vậy, trong hệ thống vũ trụ của trạng thái sinh mệnh liên tục này, văn hóa Trung Hoa về bản chất là do Trời, Thần Phật và các sinh mệnh cao cấp truyền dạy cho dân tộc Trung Hoa, và sau đó được toàn thể dân tộc này tiếp nhận, học hỏi, nắm vững và truyền thừa qua nhiều thế hệ, từ đó hình thành nên văn hóa Trung Hoa.
Văn hóa Trung Hoa có nguồn gốc Thần truyền, điều này đã được dân tộc này kể lại thông qua rất nhiều câu chuyện, chẳng hạn trong truyền thuyết cổ xưa của Trung Hoa, mẹ của Phục Hy có thai sau khi giẫm lên dấu chân của Thần Tiên, rồi sinh ra Phục Hy. Ngay từ khi sinh ra, Phục Hy đã có thánh đức, dưới sự khải thị của thượng thiên, ông vẽ ra Bát quái và truyền lại cho nhân loại. Đây là một ví dụ của việc văn hóa Trung Hoa bắt nguồn từ Thần truyền. Thêm vào đó, Lão Tử bên Đạo gia và Thích Ca Mâu Ni bên Phật gia vốn dĩ là Thần, là Phật, và chính họ đã truyền bá văn hóa cho nhân loại. Trải qua quá trình truyền thừa nhiều thế hệ, từ đó cấu thành nên một bộ phận của văn hóa Trung Hoa. Đây cũng chính là nguồn gốc của Thần truyền.
Những ví dụ như vậy bao trùm các khía cạnh chính của văn hóa Trung Hoa. Vì vậy, tổng kết lại, văn hóa Trung Hoa có nguồn gốc từ Thần truyền, là nền văn hóa Thần truyền.
2) Nguồn gốc nguyên lai của văn hóa Trung Hoa bắt nguồn từ sự yêu thương từ bi của Sáng Thế Chủ dành cho con người, khai mở trí huệ cho con người
Văn hóa Trung Hoa có nguồn gốc Thần truyền, là văn hóa do Thần truyền dạy, câu nói này chỉ khái quát một phần đặc trưng của văn hóa Trung Hoa. Văn hóa Trung Hoa còn có một đặc trưng trọng yếu hơn, chính là tiết lộ cho nhân loại một phần nội hàm rất uyên thâm, tinh túy và cực kỳ trọng yếu của vũ trụ. Trong đó bao gồm các yếu tố mà con người hiện đại chưa thể hoàn toàn hiểu được như Bát quái, Ngũ hành, Âm dương, Thái cực, Phật Pháp, v.v. Ngoài ra, còn có những lời khải thị về quy luật “thiện ác hữu báo”, cũng như những thực chứng và chỉ dẫn về quy luật này. Bên cạnh đó còn nhiều điều khác nữa. Những khải thị này vô cùng sâu xa, rộng lớn, vượt xa khỏi cảnh giới của “văn hóa Thần truyền” theo nghĩa thông thường. Vì vậy, không thể chỉ đơn giản dùng cụm từ “văn hóa Thần truyền” mà có thể bao quát hết được.
Lấy ví dụ về sự khải thị, chứng thực và chỉ dẫn của văn hóa Trung Hoa đối với quy luật “thiện ác hữu báo”. Thực ra, đây là quy luật trọng yếu nhất và căn bản nhất trong vũ trụ. Văn hóa Trung Hoa đối với sự khải thị của quy luật này bắt đầu từ sự biểu hiện báo ứng thiện ác, dần dần sâu sắc hơn với các khái niệm như “lục đạo luân hồi”, “thiên mệnh”, “sự tồn tại của Thần”…, cho đến những tầng thứ cao hơn như “ngoài trời còn có trời”, “ông Trời”, “Sáng Thế Chủ”, v.v. Thậm chí, nó còn đạt đến tầng thứ tối cao như “Thiên tác nghiệt do khả vi, tự tác nghiệt bất khả hoạt” (tức là: Trời tạo nghiệt thì còn có thể tránh, chứ tự mình tạo nghiệt thì không thể sống). Sự khải thị của văn hóa Trung Hoa về những thiên cơ của vũ trụ đã đạt đến mức độ vô cùng cao siêu và sâu xa. Do đó, nguồn gốc của nó không thể chỉ đơn giản dùng cụm từ “văn hóa do Thần truyền” mà có thể bao quát hết được.
Vậy tại sao văn hóa Trung Hoa lại có những nội hàm cao thâm như vậy? Trong văn hóa Trung Quốc cũng có những đáp án mang tính gợi mở cho câu hỏi này. Văn hóa Trung Hoa nói về “Thiên ngoại hữu thiên”. “Thiên – Trời” ở đây thực ra là chỉ các sinh mệnh cao cấp như Thần, Phật ở các tầng thứ thiên thể tương ứng, và chỉ hoàn cảnh sinh tồn thiên thể do những sinh mệnh cao cấp này cấu thành. “Thiên ngoại hữu thiên”, giải thích về hoàn cảnh sinh tồn của các sinh mệnh cao cấp như Thần, Phật ở các tầng thứ khác nhau trong vũ trụ – và ở cao hơn nữa còn có hoàn cảnh thiên thể của các sinh mệnh cao cấp hơn nữa sinh tồn, thậm chí cao hơn và cao hơn nữa… Các sinh mệnh cao cấp hơn sẽ đại diện cho trí tuệ cao minh hơn và lòng từ bi vĩ đại hơn. Do đó, việc văn hóa Trung Hoa có thể khải thị quy luật căn bản của vũ trụ “thiện ác hữu báo” đến mức độ cực kỳ sâu xa và cao siêu như vậy, chắc chắn là nhờ vào lòng từ bi của những sinh mệnh cao cấp ở tầng trời cao hơn, đã truyền dạy cho con người.
Nói sâu hơn nữa, văn hóa Trung Hoa có thể khai thị quy luật của vũ trụ đến tầng thứ cao nhất như “Thiên tác nghiệt do khả vi, tự tác nghiệt bất khả hoạt”, đó là bởi vì vị Thần tối cao trong vũ trụ cho phép làm như vậy, là kết quả của sự chăm sóc từ bi.
Làm thế nào để hiểu về Đấng Tối Cao, vị Thần quyền uy nhất cai quản tất cả các tầng trời trong vũ trụ? Ngài cũng chính là vị Thần vĩ đại nhất đã tạo nên toàn bộ vũ trụ, chúng ta tôn kính gọi Ngài là Sáng Thế Chủ. Vì vậy, nguồn gốc sâu xa nhất của văn hóa Trung Hoa là lòng từ bi và tình thương của Sáng Thế Chủ dành cho nhân loại.
Sự tồn tại của văn hóa Trung Hoa là nhờ sự bảo trợ và cho phép của Sáng Thế Chủ, nhằm khai mở trí tuệ con người và tạo nên văn minh của nhân loại.
3) Sứ mệnh vĩ đại của văn hóa Trung Hoa: Giúp con người có thể hiểu được lời giảng Pháp của Sáng Thế Chủ, từ đó được cứu độ
Trong văn hóa của nhiều dân tộc trên thế giới đều có truyền thuyết như thế này: Vào thời khắc cuối cùng của vũ trụ, nhân loại và toàn bộ vũ trụ đều sẽ gặp phải thảm họa, khi đó vị Thần cao nhất, Sáng Thế Chủ sẽ trở lại nhân gian, giảng Pháp và cứu vớt chúng sinh của Ngài.
Trong văn hóa của các dân tộc, vị Thần này có những tên gọi khác nhau, nhưng đều ám chỉ vị Thần tối cao, Chủ tể, Pháp vương, Đấng sáng tạo… Trong truyền thuyết của văn hóa Trung Quốc, Ngài được gọi là Di Lặc. Còn trong văn hóa phương Tây gọi là Messiah. Một số nhà ngôn ngữ học đương đại trong các nghiên cứu của mình đã chỉ ra rằng, “Di Lặc” ở phương Đông và “Messiah” ở phương Tây, thực ra đều chỉ cùng một người, chỉ là do truyền bá trong thời gian dài và quá trình dịch thuật qua nhiều ngôn ngữ khác nhau dẫn đến sự khác biệt về cách phát âm. Điều này có nghĩa là, dù ở phương Đông hay phương Tây, nhiều dân tộc đều biết rằng, vào thời khắc cuối cùng của vũ trụ, Sáng Thế Chủ sẽ đến nhân gian để giảng Pháp.
Nếu Sáng Thế Chủ đến nhân gian để giảng Pháp, không chỉ cứu độ toàn nhân loại mà Ngài còn cứu cả vũ trụ, vậy thì liệu nội hàm Pháp lý mà Ngài giảng có phải rất cao thâm, rất khó hiểu không? Vậy, với tư cách là con người, chúng ta có cần phải trang bị trước những tố chất nhất định rồi mới có thể hiểu được nội hàm những lời giảng Pháp vô cùng tinh thâm của Sáng Thế Chủ? Chắc hẳn là vậy.
Trong số các nền văn hóa cổ đại trên thế giới, duy chỉ có văn hóa Trung Hoa còn tồn tại cho đến ngày nay với nội hàm vô cùng sâu sắc. Văn hóa Trung Hoa không chỉ nói cho con người biết về những chân lý như thiện ác hữu báo về mặt lý thuyết và giáo huấn,… hơn nữa nó cũng từ góc độ tri thức, nhận thức đang khai mở trí tuệ cho nhân loại trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Văn hóa Trung Hoa dạy con người biết về những khái niệm đối ứng tương hỗ như Âm dương, Thái cực, Ngũ hành, thiện ác, cương nhu, chính tà, thật giả, trung – gian, chính phụ, hư thực, khách chủ, trên dưới, trong ngoài, tâm – thân, tinh khí thần, báo ứng và nhân duyên, ngẫu nhiên và tất nhiên, đạo lý và biểu hiện, thiên ý và ý nguyện của con người v.v., đồng thời mô tả sự hiện diện của chúng trong nhân loại, trong vũ trụ, trong sự vận động của sinh mệnh và vật chất, hướng dẫn con người trải nghiệm, nhận thức, kiểm chứng và suy ngẫm. Thông qua một hệ thống như vậy, trí tuệ của nhân loại ngày càng mở rộng, đạo đức ngày càng được nâng cao. Quá trình vận hành và thực tiễn của văn hóa truyền thống Trung Hoa là một quá trình dẫn dắt con người trang bị đầy đủ trí tuệ, hướng tới con đường giác ngộ.
Ngoài ra, còn một vấn đề nữa. Khi Sáng Thế Chủ đến nhân gian để giảng Pháp, tất nhiên Ngài cũng sẽ sử dụng ngôn ngữ của con người. Nếu ngôn ngữ của con người có nội hàm quá nghèo nàn, không đủ để chứa đựng các quy luật và hiện tượng của vũ trụ, liệu có phải sẽ rất khó để truyền đạt Pháp lý của vũ trụ cho nhân loại chăng? Vì thế, Sáng Thế Chủ đã tạo dựng văn hóa Trung Hoa ngay từ thuở sơ khai, định hình ngôn ngữ được sử dụng trong văn hóa Trung Hoa, làm cho ngôn ngữ đó trở nên phong phú, nội hàm thâm hậu, có thể đáp ứng nhu cầu giảng Pháp cho nhân loại và chúng sinh trong tương lai. Quá trình phát triển của văn hóa Trung Hoa cũng đồng thời tạo nên ngôn ngữ cần thiết cho việc giảng Pháp của Sáng Thế Chủ trong tương lai.
Tóm lại, văn hóa Trung Hoa mang một sứ mệnh vô cùng vĩ đại: vì để thích ứng với nhu cầu giảng Pháp của Sáng Thế Chủ nhằm cứu độ nhân loại và vũ trụ trong thời khắc cuối cùng của vũ trụ, nên ngay từ ban đầu đã tạo nên loại ngôn ngữ mà Sáng Thế Chủ cần dùng để giảng Pháp, cũng như tạo ra một nền văn hóa và nhóm người có khả năng hiểu được lời giảng Pháp của Sáng Thế Chủ, do đó nhóm người và văn hóa đó phải mang trong mình một mức độ trí tuệ sâu sắc nhất định.
Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/291126
Tác giả: Kính Tạ Ân
[ChanhKien.org]
(7) Hình thành thể hệ thực chứng lấy việc kiểm chứng quy luật “Thiện ác hữu báo” làm cốt lõi, với nhiều loại ghi chép kết hợp bổ trợ cho nhau
Các phương tiện tải thể văn tự trong văn hóa truyền thống Trung Hoa kết hợp với nhau tạo nên một lượng thông tin rất phong phú. Ở thời cổ đại, Trung Quốc là quốc gia duy nhất trên thế giới hình thành hệ thống chế độ tín sử. Ngoài hệ thống chính sử do những sử quan được nhà nước bổ nhiệm và công nhận chịu trách nhiệm ghi chép, thì còn có thông tin được tổng hợp từ trong dân chúng, v.v. được gọi là dã sử. Những nghị luận của bàn dân thiên hạ về thiện ác, đúng sai đối với mọi người, hay những giai thoại về mỗi người sẽ được truyền lại cho đời sau qua các ghi chép của văn nhân. Còn có những lời dạy của những người tu luyện Phật và Đạo thông qua các môn đồ, cư sĩ, đại chúng, cũng dần dần được biên soạn thành văn tự. Những tư liệu này kết hợp với nhau, đã lưu lại một lượng thông tin rất phong phú.
Do văn hóa Trung Hoa đã xác lập nên truyền thống coi trọng tu dưỡng đạo đức, nên khi người Trung Quốc ghi chép lại các tư liệu và thông tin lịch sử, đều hoặc là vô tình hoặc là hữu ý xoay quanh những vấn đề căn bản nhất của cuộc sống, chẳng hạn như: quy luật “Thiện ác hữu báo” có được ứng nghiệm hay không? Làm sao để chúng ứng nghiệm? Thế nào là “thiện”, thế nào là “ác”, làm sao để phân biệt? Rốt cuộc, ý chí của Thiên thượng là gì? Chính nhờ sự dẫn dắt của văn hóa này, nên các ghi chép của người Trung Quốc luôn từ nhiều góc độ khác nhau phản ánh về những vấn đề trên.
Nhờ vậy, các loại tư liệu chính sử, dã sử, bút ký, nghị luận của bàn dân thiên hạ, truyền miệng trong dân gian, ghi chép về tu luyện, v.v. trong văn hóa truyền thống Trung Quốc đều trở thành những bằng chứng, chứng thực một cách khách quan cho quy luật “Thiện ác hữu báo”; hơn nữa, chúng còn tạo thành một hệ thống kiểm chứng, xác thực và bổ sung lẫn nhau.
Sự tồn tại của phương pháp ghi chép và hệ thống kiểm chứng này đã làm cho tín ngưỡng của dân tộc Trung Hoa đối với quy luật “Thiện ác hữu báo” ngày càng bám sâu khiến cho lịch sử trở nên hiện thực, phong phú và sinh động. Điều này cũng đồng nghĩa với việc dân tộc Trung Hoa đang củng cố nguồn cội của mình bám rễ sâu hơn và vững chắc hơn.
(8) Sự ứng nghiệm thần kỳ của thiên tượng và bốc quẻ, đã không ngừng khải thị về sự tồn tại của Thiên mệnh, vận mệnh, số mệnh
Trong văn hóa Trung Hoa, đã xuất hiện một lượng lớn các hoạt động bói toán, dự ngôn, thuật số và nhiều dự ngôn đã được lịch sử chứng thực. Từ thời thượng cổ, Trung Hoa đã có các vị thiên quan chịu trách nhiệm quan sát thiên tượng, dựa trên biến hóa của thiên tượng để dự đoán những biến đổi trong tương lai của nhân gian. Các thông tin và kết quả kiểm chứng liên quan đến những dự đoán này đều được ghi chép một cách cẩn thận trong sử sách, cung cấp cho người đời sau tài liệu để kiểm chứng. Bên cạnh đó, Trung Quốc từ xưa đến nay cũng tồn tại nhiều loại hình bói toán và thuật số khác nhau, tất cả đều nhằm mục đích đoán trước tương lai. Vào thời nhà Thương, hầu như mọi việc lớn nhỏ đều được bói toán, hơn nữa kết quả cũng được ghi chép lại để kiểm chứng. Sau thời nhà Chu, số lượng hoạt động bói toán giảm đáng kể, nhưng việc ghi chép kết quả kiểm chứng vẫn được duy trì. Lịch sử Trung Hoa xác thực đã xuất hiện nhiều cao nhân, những dự đoán của họ thường rất chính xác và được lịch sử chứng thực.
Do nhiều cao nhân có thể đưa ra những dự đoán chính xác thông qua việc quan sát thiên tượng, bói toán, giải mộng, điều này như một lời nhắc nhở không ngừng đối với dân tộc Trung Hoa và toàn nhân loại rằng: trong vũ trụ có tồn tại Thiên mệnh và Thiên ý; điều này cũng chứng minh thêm cho quy luật “Thiện ác hữu báo” mà dân tộc Trung Hoa vẫn luôn tin tưởng. Bởi vì sự xuất hiện của những cao nhân về tiên tri, những dự đoán chính xác, các hiện tượng bói toán chuẩn xác đã giúp cho cội rễ của dân tộc Trung Hoa ngày càng bám sâu hơn và vững chắc hơn.
(9) Thành tựu của những người tu Đạo, tu Phật trong lịch sử đã chứng minh sự tồn tại của Thần
Trong quá trình suy ngẫm và tìm hiểu về vấn đề “quy luật ‘Thiện ác hữu báo’ có tồn tại hay không”, thì yếu tố then chốt là sự tồn tại của “Thần”. Bởi vì “Thần” là sinh mệnh cấp cao hơn, sở hữu năng lực siêu phàm, có thể nhìn thấu thiện ác và hành vi của sinh mệnh; đồng thời còn có lòng từ bi và công bằng chính trực, nghiêm túc tuân theo quy luật “thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”; hơn nữa, còn có trí huệ vô hạn, có thể cân bằng sự luân hồi chuyển kiếp của vô lượng sinh mệnh, cân bằng phúc họa của tự thân cá nhân đó, cân bằng sự báo ứng thiện ác trong truyền thừa của gia tộc, cho đến việc cân bằng hài hòa, vận hành trật tự toàn xã hội, v.v.. Do đó, lòng từ bi, năng lực, cảnh giới, trí huệ, phẩm chất của “Thần” chính là yếu tố cốt lõi, là chìa khóa quyết định trong việc quy luật “Thiện ác hữu báo” trong vũ trụ có thật sự tồn tại và có thể thực hiện được hay không.
Vì nhận thức về “Thần” trong văn hóa Trung Hoa không dựa trên hình tượng cá nhân một vị Thần mà dựa trên lý tính cao độ để nhận thức, nên trong bối cảnh văn hóa Trung Hoa, “tin vào Thần”, “hữu thần luận” gần như đồng nghĩa với “tin vào ‘Thiện ác hữu báo'”, “tin vào nhân quả thiện ác”. Ngược lại, “vô thần luận”, “phủ nhận sự tồn tại của Thần” đồng nghĩa với “không tin vào ‘Thiện ác hữu báo'”, “không tin vào luật nhân quả”.
Vậy thì dân tộc Trung Hoa, văn hóa Trung Hoa có tin vào Thần hay không, và nếu có thì họ tin như thế nào? Trong tiến trình lịch sử Trung Hoa, vũ trụ và thiên địa đã trao cho dân tộc Trung Hoa rất nhiều cơ hội để chứng kiến và nghe về những người tu luyện, phong thái của các vị Thần, Phật, từ đó khiến con người tin vào sự tồn tại của Thần. Trong lịch sử, đã xuất hiện nhiều thần tích nổi tiếng và có thật. Sự tồn tại của những thần tích này cùng với những hiện tượng siêu thường và các ghi chép đa chiều về chúng, và có rất nhiều thần tích trong lịch sử còn lưu lại ấn chứng, tất cả đã chứng minh cho sự tồn tại của Thần và người tu luyện.
Bởi vì có thể chứng minh sự tồn tại của Thần, chứng minh rằng việc tu Phật, tu Đạo là có thực và không hư ảo, cho nên niềm tin của dân tộc Trung Hoa vào quy luật “Thiện ác hữu báo” càng được củng cố mạnh mẽ hơn. Đây cũng là ân huệ to lớn mà vũ trụ và trời đất dành cho dân tộc Trung Hoa.
(Còn tiếp)
Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/291125
—Cội rễ của dân tộc Trung Hoa và sự nguy hại của lý luận cộng sản—
Tác giả: Kính Tạ Ân
[ChanhKien.org]
III. Hưởng phúc trời, văn hóa Trung Hoa hàm chứa những nhân tố đặt nền móng vững chắc cho mai sau
Như chúng tôi đã đề cập trong phần trước, thực chất cội rễ của dân tộc Trung Hoa là việc dân tộc Trung Hoa liên tục chủ động đồng hóa với quy luật thiện ác hữu báo vốn đã tồn tại từ trước trong vũ trụ, cho nên đạt được kết quả tốt đẹp trong rất nhiều phương diện.
Trong rất nhiều những kết quả tốt đẹp mà dân tộc Trung Quốc đã đạt được, có một phương diện cực kỳ quan trọng, đó chính là dân tộc Trung Hoa dưới sự ban phúc sâu dày, dẫn dắt và truyền thụ của thiên thượng, bản thân kết cấu văn hóa của họ đã bao hàm nhiều sự an bài kỳ diệu, có thể khiến cội rễ của bản thân cắm sâu hơn và chắc chắn hơn. Ở phương diện này có rất nhiều biểu hiện, tại đây xin tóm tắt đơn giản như sau.
https://www.zhengjian.org/sites/default/files/images/2024/06/20240615-zj-jz3.jpg
(1) Tự cổ chí kim, luôn lấy việc “trọng đức” làm truyền thống văn hóa căn bản
Trong lịch sử, những văn minh vật chất và văn minh tinh thần mà dân tộc Trung Hoa sáng tạo ra là vô cùng phong phú, nó bao quát tất cả các loại kiến trúc, đồ dùng, đồ ăn thức uống, trang phục, lễ nghi, thơ ca, vũ khí, v.v., khiến người ta phải trầm trồ thán phục. Nhưng đặc trưng điển hình nhất, căn bản nhất cấu thành nên nền văn minh Trung Hoa, đó là sự chú trọng vào việc nâng cao đạo đức, cũng chính là việc “trọng Đức”. Đây là đặc trưng tinh thần căn bản nhất của nền văn minh Trung Hoa.
“Trọng Đức” là đặc trưng tinh thần căn bản nhất, điển hình nhất của văn minh Trung Hoa, trong nền văn minh vật chất Trung Hoa cũng có biểu hiện khá nổi bật. Lấy ví dụ về trang phục, tên gọi của kiểu dáng, kết cấu, bộ phận của trang phục vua quan, sĩ phu, cung nữ của các triều đại khác nhau ở Trung Quốc cổ đại đều thể hiện sự kính trọng trời đất, coi trọng việc tu đức. Cho nên lúc con người mặc áo đội mũ thì cũng đều là một lần nhận được sự nhắc nhở về lý niệm “trọng Đức”. Kiến trúc, vật dụng, ẩm thực, v.v. đều như vậy, thông thường đều mang theo công năng nhắc nhở việc phải “trọng Đức”.
https://www.zhengjian.org/sites/default/files/images/2024/06/20240615-zj-jz4.jpg
Từ thời thượng cổ Trung Hoa, đến thời Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn, trải qua các triều các đại, đều lấy việc “trọng Đức” làm văn hóa truyền thống căn bản nhất. Từ cấu thành của văn hóa Trung Hoa mà nói, Phật, Đạo, Nho ba nhà chiếu rọi lẫn nhau, tạo nên chủ thể của văn minh Trung Hoa. Trong đó, nội dung cốt lõi của Nho gia có thể khái quát bằng câu “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ vu chí thiện” (nghĩa là Đạo của Đại học là hiểu rõ cái Đức, yêu thương con người, là ở chỗ đạt đến chí thiện), thể hiện ở chỗ “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, quản lý quốc gia quan trọng ở chỗ “Tự thiên tử dĩ chí vu thứ dân, nhất thị gia tu thân vi bổn” (nghĩa là từ vua cho tới dân thường, tất cả đều lấy việc tu thân làm gốc). Tu thân nói đến ở đây, thực chất cũng là tu đức. Mà bản thân Đạo gia, Phật gia chính là tu luyện, chính là dạy cho con người tu Chân, trọng Đức, tu Thiện.
Dân tộc Trung Hoa xác định “trọng Đức” là văn hóa truyền thống, đây là sự lĩnh hội sâu sắc nhất, vận dụng thông minh và trí tuệ nhất đối với tín ngưỡng thiện ác hữu báo, cũng là biểu hiện việc dân tộc Trung Hoa đang chủ động làm sâu dày thêm cội rễ của chính mình.
(2) Áp dụng hệ thống bồi dưỡng đạo đức phong phú, cao thâm, thiết thực và hiệu quả
“Trọng Đức” của dân tộc Trung Hoa không phải là nói suông, mà được lưu truyền về sau cùng với một hệ thống bồi dưỡng đạo đức. Trong hệ thống bồi dưỡng đạo đức của truyền thống dân tộc Trung Hoa sử dụng hệ thống tiêu chuẩn đạo đức ngũ đức: “Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín”; cũng có những lối diễn đạt như “Trung hiếu tiết nghĩa” v.v., về bản chất cũng đều là ngũ đức.
Trong quá trình bồi dưỡng, người ta cho rằng “Nhân vi ngũ đức chi bổn” (tạm dịch: Nhân nghĩa là gốc của ngũ đức), đồng thời cho rằng “Hiếu dã giả kì vi nhân chi bổn dữ” (tạm dịch: hiếu là căn bản của Nhân nghĩa), cho nên trong giáo dục thực tiễn, sẽ đặt giáo dục tại gia đình lên hàng đầu, đặt giáo dục trong xã hội lên hàng đầu, đặt hiếu lên hàng đầu. Điểm này là phù hợp nhất với nhân tính, cũng dễ dàng đạt hiệu quả nhất, đồng thời cũng mang theo lực lượng chấn động tâm linh sâu sắc nhất.
Trên cơ sở nền giáo dục gia đình và xã hội phổ biến coi trọng chữ “Hiếu”, vì vậy mà văn hóa Trung Hoa cũng chú trọng bồi dưỡng toàn diện các loại phẩm chất như nhân đức, trung thành, lễ kính, tín nghĩa, trí tuệ, thanh bạch, dũng cảm, có trách nhiệm, đảm đương, nghị lực v.v. Quốc gia tìm trung thần trong những người con có hiếu, vì vậy mỗi cá nhân cũng như toàn bộ xã hội đều được vun bồi mà trưởng thành trong hệ thống “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” như thế.
Phối hợp với hệ thống giáo dục này, trong dân gian cũng hình thành nên hình thức xã hội đã lấy dòng tộc làm nơi ủy thác việc coi trọng giáo dục, lấy sự giáo dục trong dòng tộc và gia đình làm đơn vị, lấy sự dạy dỗ ở làng xã làm cơ sở, lấy sự gương mẫu của người trưởng làng và sĩ phu làm bối cảnh cho hệ thống giáo hóa đạo đức trong nhân dân. Mà trên phương diện quốc gia, từ thời kỳ của Hiên Viên Hoàng Đế hay thậm chí còn sớm hơn, đã hình thành việc “trọng Đức” làm căn bản, lấy việc truyền thừa các tác phẩm kinh điển làm hạt nhân trong hệ thống giáo dục quan lại.
Hệ thống bồi dưỡng của dân tộc Trung Hoa là đa phương diện, hoàn chỉnh, hơn nữa còn mang tính sâu sắc, tính thực dụng, tính hữu hiệu rất cao. Đó cũng là biểu hiện chủ động làm sâu dày hơn cội rễ bản thân của dân tộc Trung Hoa.
(3) Dùng hệ thống chức quan, vi chính, phù chính làm hạt nhân để thăng hoa đạo đức, hỗ trợ quá trình sửa đổi hướng về Thiện
Các cơ quan của quốc gia và hệ thống quan lại thời Trung Quốc cổ đại lấy “Chu lễ” của Chu Công làm cơ sở, mà “Chu lễ” lại có nguồn gốc rất lâu đời, có thể là từ thời Hoàng Đế hoặc trước thời đó nữa.
Sau khi các cơ quan của quốc gia và hệ thống quan lại của thời nhà Chu được viết thành sách “Chu Lễ”, các triều đại sau này đều lấy đó làm tham chiếu, về tổng thể cách bố trí đều không có thay đổi về thực chất, vẫn luôn được áp dụng cho tới thời Thanh mạt.
Thể hệ vi chính: thuận ứng thiên ý, giáo hóa dân chúng, làm gương cho vạn dân
Đầu tiên, thể hệ vi chính Trung Hoa truyền thống có khác biệt rất lớn với chức năng quốc gia dựa trên nền tảng và hạt nhân là đấu tranh giai cấp mà chủ nghĩa cộng sản đương đại tuyên truyền. Thứ hai, so với chức năng quốc gia của hệ thống dân chủ hiện đại cũng tồn tại sự khác biệt lớn. Bởi vì, hệ thống chính trị của văn hóa truyền thống Trung Hoa có đặc trưng là thuận ứng thiên ý, giáo hóa nhân dân, đủ để làm gương cho vạn dân. Như vậy, nó sẽ thể hiện ra ở rất nhiều phương diện.
Ví như vị trí thiên tử. Lãnh đạo tối cao của quốc gia là thiên tử, hàm nghĩa ở đây là con của trời. Thiên tử là mang theo thiên mệnh, cho nên được hưởng địa vị to lớn, bởi vậy phải chú trọng đức hạnh. Nếu thiên tử làm loạn, mất đức, gây ra tình huống nghiêm trọng, thì có khả năng mất đi thiên mệnh, từ đó mất đi địa vị to lớn. Đây là nhận thức cơ bản của toàn bộ xã hội trong truyền thống Trung Hoa, là một khái niệm chung được lưu truyền từ xưa đến nay. Tiếp nữa, là vị trí Vương hậu, Vương hậu là vợ của thiên tử, có được sự tôn quý sánh ngang thiên tử, sau khi được thụ phong mới có thể đảm nhiệm vị trí “Hậu”. Thân phận và chức trách của Hậu là “Mẫu nghi thiên hạ”, là tấm gương dạy bảo cho nữ giới trong thiên hạ. Nếu như làm loạn, đức hạnh không đủ để làm “mẫu nghi thiên hạ”, cũng sẽ bị phế truất. Cách sắp đặt này của truyền thống Trung Hoa so với các quốc gia văn minh khác cùng thời kỳ trên thế giới cơ bản là tương đồng, nhưng có thêm chức trách làm tấm gương đạo đức “Mẫu nghi thiên hạ”, đây là đặc điểm chỉ mình văn hóa Trung Hoa có, hoặc được nhấn mạnh một cách đặc biệt.
Còn việc tuyển chọn và sát hạch quan lại của quốc gia, coi trọng trước hết hoàn toàn không phải là tài năng, mà là phẩm đức, đức hạnh, phải là người tài đức vẹn toàn, lấy đức làm đầu. Nếu như khi nhậm chức phát hiện đức hạnh không đủ làm tấm gương cho nhân dân, ví như xuất hiện tình trạng bất hiếu với cha mẹ, cho dù là người có năng lực, thì cũng bị cách chức, thậm chí là bị xử tội.
Thể hệ quan lại với trung tâm và gốc rễ là việc giáo hóa nhân dân và thăng hoa đạo đức
Trong văn hóa truyền thống Trung Hoa, nhận thức về chức năng của quốc gia cũng khác với lý luận về quốc gia thời hiện đại. Trong văn hóa truyền thống, gốc rễ của chức năng và tác dụng của quốc gia nằm ở việc hỗ trợ thượng thiên, vận dụng quyền lực mà thiên thượng trao cho để thực hiện việc giáo hóa. Cho nên, giáo hóa dân chúng trở thành việc chủ yếu nhất của quốc gia, cũng là nguồn gốc cho tính hợp pháp của quốc gia.
Hệ thống quan chức cổ đại của Trung Quốc có ba chức năng chủ chốt được phản ánh tại những phương diện sau: thứ nhất là hỗ trợ nhân dân giải quyết các khó khăn trong sinh hoạt và xây dựng kinh tế; hai là thúc đẩy giáo hóa nhân dân trong nước, khiến họ đồng hóa với lễ chế; thứ ba là đảm nhiệm việc bảo vệ quân sự. Trong ba phương diện đã nói ở trên, thì việc giáo hóa nhân dân giúp cho họ đồng hóa với lễ chế, nếu ở phương diện này làm được tương đối tốt, thì có thể đạt được sự ủng hộ và tín nhiệm của nhân dân, cho nên đây là phương diện trung tâm và căn bản.
Vì thế trong hệ thống quan chức quốc gia có một chức vụ chuyên môn phụ trách việc giáo hóa, vào thời thượng cổ gọi là “Tư đồ”, các triều đại về sau sẽ gọi bằng những tên khác nhau. Tư đồ thời thượng cổ phụ trách thi hành việc giáo hóa nhân dân về những điều như phụ nghĩa, mẫu từ, huynh hữu, đệ cung, tử hiếu (cha nghĩa, mẹ hiền, anh thân thiết, em cung kính, con có hiếu) v.v. Tuy rằng thuận theo thời đại nội dung giáo hóa của đời sau cũng có thay đổi, nhưng đều xoay quanh những giá trị như lễ, hiếu, đức,… Ngoài Tư đồ trực tiếp phụ trách việc giáo hóa, còn phải sắp sắp các quan viên khác phụ trách các công tác liên quan đến việc giáo hóa, ví như quan chức phụ trách việc cúng bái trời đất sông núi, quan chức phụ trách việc cúng bái tổ tiên, quan chức phụ trách phân biệt quan hệ thân thuộc gần hay xa để sắp xếp trật tự, quan chức phụ trách tiệc hội tiếp khách, quan chức phụ trách việc khảo sát nhân phẩm hiếu hiền, quan chức phụ trách khảo sát phong tục dân chúng để báo về cho quốc gia, v.v.
Thể hệ phù chính: lấy tín ngưỡng thiện ác hữu báo làm cơ sở, phù trợ quân chủ sửa lỗi thành thiện, ngưng tụ trí tuệ
Thể hệ phù chính, đầu tiên là chỉ thể hệ phù trợ thiên tử, hoàng đế, quốc vương hoàn thành chính sự, là một loại thể hệ mang tính hỗ trợ. Nhận thức về tác dụng chức năng của quốc gia trong văn hóa truyền thống Trung Hoa, có sự khác biệt rất lớn so với nhận thức của chủ nghĩa cộng sản và lý luận chính trị dân chủ đương đại. Bởi vì văn hóa truyền thống Trung Hoa cho rằng tác dụng, chức năng của thiên tử là trợ giúp trời đất, hoàn thành việc giáo hóa, làm tấm gương cho thiên hạ, vậy nên thể hệ phù chính tương ứng cũng là xoay quanh hạt nhân này. Bởi vậy, trong văn hóa truyền thống Trung Hoa có rất nhiều an bài đặc thù, ví như: coi trọng kiến thức, đạo đức của người thầy giáo. Cần phải thiết lập các vị trí như thái sư, thái phó, thái bảo bên cạnh thiên tử, quân vương, thái tử.
Lấy một ví dụ khác: coi trọng sử quan. Ít nhất là vào thời kỳ Hiên Viên Hoàng Đế dân tộc Trung Hoa đã xuất hiện chức vụ Sử quan (chức quan ghi chép lịch sử). Quy định thông thường của chế độ sử quan là bố trí hai vị sử quan bên tả và bên hữu, đồng thời từng người đều phụ trách việc ghi chép lại lời nói và hành động của thiên tử, quân vương, từ đó hỗ trợ và giám sát thiên tử, quân vương. Sử quan còn phụ trách quan sát thiên tượng, quản lý thư viện quốc gia, các tư liệu văn hiến và phụ trách cả việc bói toán. Sở dĩ Sử quan được giao phó nhiều chức trách như thế là để Sử quan có thể dùng đạo lý của trời và người cũng như sự thật lịch sử để hỗ trợ cho thiên tử và quân vương.
Còn có coi trọng chức năng khuyên nhủ bề tôi, đi sâu vào định nghĩa của chữ “Trung (忠)”. Chức trách của tất cả bề tôi tuyệt không phải chỉ là chấp hành đơn thuần, mà còn là đề xuất khuyến nghị trước những quyết định sai lầm của người chủ bề trên. Nếu quyết định của bề trên sai lầm, mà bề tôi không đề xuất khuyên ngăn, thì là thuộc loại bất Trung.
Thể hệ phù chính này của Trung Hoa truyền thống – cũng chính là việc bố trí quan lại để phục vụ thiên tử, hoàng đế, quân chủ như thế nào, tuyệt không phải là xoay quanh ý chí quyền lực của thiên tử và quân vương, mà là xoay quanh quy luật “Thiện ác hữu báo”. Nói cụ thể hơn, thể hệ phù chính của Trung Quốc tuyệt không phải dựa vào việc hâm mộ “Tự do ý chí, tự do biểu đạt tự nhiên” trong nhân tính con người, từ đó xem xét làm thế nào để bảo vệ việc thiên tử, quân vương có thể thoải mái thi triển ý chí tự do của bản thân mình, rồi phát triển thành một bộ giá trị quan và hệ thống công tác “Chỉ có quân chủ là lớn nhất”, “Chỉ nghe lệnh quân chủ”, “Chỉ có quân chủ là tối cao”. Mặc dù trong lịch sử văn hóa truyền thống Trung Hoa, thể loại này cũng đã từng xuất hiện, ví như trong thời kỳ Chiến Quốc có lý luận của nhân vật nào đó theo trường phái Pháp gia, các triều đại sau này có ngôn luận thái độ của nịnh thần nào đó. Nhưng kiểu lý luận và ngôn luận đó tuyệt không dung nạp vào trong thể hệ phù chính của văn hóa truyền thống Trung Hoa, thậm chí là trong chỉnh thể thể hệ phù chính, một thời gian dài những lý luận và ngôn luận đó luôn bị xem là quan điểm ngôn luận thấp kém, trong lịch sử bị coi là một tấm gương giáo huấn mang tính tiêu cực phụ diện.
Nói chung, hệ thống phụ trợ chính trị trong văn hóa truyền thống Trung Hoa là dựa vào tín ngưỡng “Quy luật thiện ác hữu báo của vũ trụ”, chủ yếu là xem xét nên làm thế nào để bồi đắp những phương diện phẩm đức và trí tuệ chưa đầy đủ của thiên tử, hoàng đế, từ đó khiến thiên tử, hoàng đế cho đến quốc gia, nhân dân đều có một tương lai tốt đẹp hơn.
Những phương diện kể trên, đều là biểu hiện cho việc dân tộc Trung Hoa, văn hóa Trung Hoa đang chủ động làm sâu dày thêm cội rễ của tự thân, những phương diện này triển hiện trong lĩnh vực chính sự quốc gia chính là lý luận về chức năng quốc gia, cách sắp xếp hệ thống lãnh đạo quốc gia, cách sắp xếp các chức quan.
(Còn tiếp)
Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/291047
—Cội rễ của dân tộc Trung Hoa và nguy hại của lý thuyết cộng sản—
Tác giả: Kính Tạ Ân
[ChanhKien.org]
(8) Tin rằng ngoài trời còn có trời, đức lớn của trời đất là hiếu sinh, hiểu được nguồn gốc tận cùng của quy luật thiện ác hữu báo
Truyền thống Trung Hoa tin rằng “Bên ngoài bầu trời còn có trời” (Thiên ngoại hữu Thiên). Trong văn hóa Trung Quốc, “Trời” ở đây là chỉ toàn bộ thể hệ được cấu thành từ tầng thứ và phạm vi nhất định của chúng Thần trong vũ trụ. Thực ra từ “Trời” là dùng để chỉ các vị Thần, chư Phật nói chung. Hàm nghĩa của câu “Bên ngoài bầu trời còn có trời”, chính là tin rằng bản thân vũ trụ bao gồm vô số tầng thứ, thể hệ và sự phân chia từ trên xuống dưới.
Nhận thức này của văn hóa Trung Hoa là phù hợp với thực tế của vũ trụ. So với một số tín ngưỡng khác trên thế giới chủ trương rằng chỉ có một vị Thần, thì chân tướng về vũ trụ mà Thần khải thị, tiết lộ cho dân tộc Trung Hoa đã càng phong phú và chi tiết hơn, từ đó khiến văn hóa Trung Hoa triển hiện ra tầm nhìn nhận thức rộng lớn và sâu sắc hơn.
Ví dụ, Đức Giê-hô-va dựa trên hình tượng của bản thân mình mà tạo ra chủng người da trắng, Nữ Oa dựa theo hình tượng của mình mà tạo ra chủng người da vàng, các vị Thần của các dân tộc khác nhau đã tạo ra những chủng người khác khau. Đối với người của dân tộc tương ứng mà nói, vị Thần tạo ra họ chính là Chủ, là vị Thần tối cao của họ. Tuy nhiên, so với văn hóa Trung Hoa, thì văn hóa của đại đa số các dân tộc khác không có được sự khải thị về chân tướng vũ trụ một cách sâu sắc, bác đại, rộng lớn, và cao thâm như vậy.
Văn hóa truyền thống Trung Hoa còn tin rằng, ở trên rất nhiều tầng trời của vô số vô lượng vũ trụ, còn có những vị Thần linh, Chúa tể cao hơn, cao hơn nữa, cho đến vị Thần tối cao. Trí tuệ và lòng từ bi của vị Thần tối cao này chính là điều chi phối tất cả chúng Thần của vũ trụ, ngự trị trên tất cả các vị Thần khác, vĩ đại hơn, cao minh hơn, với trí tuệ siêu việt và lòng từ bi bao la nhất. Người dân thường gọi vị Chủ Tể tối cao này là ‘ông Trời’. Văn hóa Trung Hoa cho rằng, ý chí căn bản của Đấng Chủ Tể tối cao này, cũng chính là sự yêu thương, lòng từ bi và trí tuệ vĩ đại nhất và cao cả nhất, có thể quán xuyết từ tầng cao nhất của vũ trụ xuống tầng thấp nhất, chi phối tất cả sự việc phát sinh và vận hành trong vũ trụ. Đây chính là nguồn gốc sản sinh ra quy luật thiện ác hữu báo trong vũ trụ.
Văn hóa Trung Hoa từng cố gắng dùng ngôn ngữ của con người để biểu đạt tình yêu thương và lòng từ bi cao cả này, có thể tóm gọn điều này bằng cụm từ “Thiên địa chi đại đức viết sinh” (tạm dịch: Đức lớn của trời đất là hiếu sinh). Văn hóa Trung Hoa cho rằng, quy luật thiện ác hữu báo tại tầng tầng trong vũ trụ chính là được triển khai dưới trí tuệ tối cao và ý chí từ bi này. Nhận thức của văn hóa Trung Hoa về quy luật thiện ác hữu báo trong vũ trụ có lẽ đã đạt đến mức hiểu biết cao nhất về tính chất và bản chất của nó ở phương diện nhận thức lý tính.
(9) Tin rằng “Thiên tác nghiệt do khả vi”, từ đó đạt được tin tưởng sâu sắc nhất vào quy luật thiện ác hữu báo
Dựa trên niềm tin sâu sắc vào trí tuệ và lòng từ bi vô hạn của Đấng Chủ Tể tối cao, Đấng Thần linh tối cao, cho nên dân tộc Trung Hoa có niềm tin sâu sắc nhất vào quy luật thiện ác hữu báo. Chính niềm tin này đã giúp dân tộc Trung Hoa, ngay cả trong những lúc khó khăn, nguy hiểm, vẫn không oán trách mà luôn tin rằng quy luật thiện ác hữu báo là có thật và vũ trụ cuối cùng sẽ luôn công chính.
Cho nên, từ thời thượng cổ, dân tộc Trung Hoa đã lưu truyền một câu nói: “Thiên tác nghiệt, do khả vi; tự tác nghiệt, bất khả hoạt” (tạm dịch: Trời gieo cho tai vạ, còn có thể tránh được. Tự mình làm nên tai vạ không trốn thoát được). Dân tộc Trung Hoa tin rằng, ngay cả khi trong vũ trụ bao la, trong toàn bộ thể hệ rộng lớn xảy ra đại biến cố và các thảm họa, thì các thiên thể ở tầng thứ cao hơn vẫn cấp một cơ hội được sống cho con người. Cũng chính là dựa vào niềm tin này, đã hun đúc nên niềm tin sâu sắc của văn hóa truyền thống dân tộc Trung Hoa đối với việc tu dưỡng đạo đức và đề cao. Trong văn hóa của dân tộc Trung Hoa chưa từng xuất hiện kiểu câu hỏi như “Nếu có ngày tận thế và mọi thứ sẽ không còn tồn tại nữa, vậy thì chúng ta phải làm sao?” Cho dù tương lai có ra sao, dù thân xác này sống hay chết, thì đều nên giữ gìn đạo đức của bản thân. Thái độ kiên định này thực chất là sự thể hiện niềm tin sâu sắc nhất của văn hóa Trung Hoa đối với quy luật thiện ác hữu báo.
(Còn tiếp)
Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/291087
—Cội rễ của dân tộc Trung Hoa và sự nguy hại của lý thuyết cộng sản—
Tác giả: Kính Tạ Ân
[Chanhkien.org]
(4) Tin vào sự tồn tại của Thần, Thần đang thực hiện và chứng thực quy luật thiện ác hữu báo
Đây là tín ngưỡng và lý giải đối với cơ chế thực hiện, cơ chế duy trì và cơ chế quản lý của quy luật thiện ác hữu báo. Tin tưởng Thần trong văn hóa truyền thống Trung Hoa khác với sự tin tưởng Thần của các dân tộc khác trên thế giới, là bởi vì đức tin vào Thần của văn hóa truyền thống Trung Hoa có một sự nhất trí nội tại sâu sắc với mức độ tin tưởng vào quy luật thiện ác hữu báo. Nói một cách cụ thể, nếu thiện ác hữu báo là quy luật căn bản trong thiên địa và vũ trụ, thì sinh mệnh phụ trách thực thi, thực hiện và chứng thực quy luật đó chính là Thần.
Trong văn hóa Trung Quốc, điều này bao gồm nội hàm của hai phương diện, có thể lý giải từ hai góc độ sau:
Đầu tiên là góc độ luân hồi chuyển sinh dựa trên thiện ác hữu báo của mỗi cá nhân. Trong trời đất vũ trụ, ai có thể nhìn rõ thiện ác của sinh mệnh, phụ trách ghi chép lại tất cả hành vi và niệm đầu thiện ác của sinh mệnh, lại còn dẫn dắt sinh mệnh ấy chuyển sinh, chịu trách nhiệm thực hiện quy luật thiện ác hữu báo trong quá trình chuyển sinh của sinh mệnh ấy, thì người đó chính là Thần.
Thứ hai là góc độ toàn thể xã hội tồn tại cộng sinh với nhau từ đó mà thực hiện quy luật thiện ác hữu báo. Nắm giữ và phụ trách việc con người gặp gỡ, liên hệ, cũng như họa phúc mà mỗi thành viên trong gia tộc phải gặp trong đời, từ đó thực hiện quy luật thiện ác hữu báo trong phạm vi rộng lớn cũng chính là Thần.
Ngoài vị Thần an bài phụ trách việc chuyển sinh đã kể trên, còn có rất nhiều vị Thần khác. Ví dụ: Vì để bảo đảm xã hội nhân loại đang thực thi có thứ tự chiểu theo nội dung kịch bản mà Thần đã an bài (quan hệ giữa người với người), từ đó sẽ có các vị Thần chuyên trách về quản lý thời gian trong năm, mùa vụ, mưa gió, sấm sét, dịch bệnh, sinh sản tử vong, công danh phú quý, tù tội tai nạn, tiêu hao tài sản, v.v., tất cả những sự việc trong người thường đều do Thần cai quản.
Các vị Thần nói trên tự mình phụ trách một phạm vi hoặc một sự vụ nhất định, họ phối hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ, tất cả đều nghe theo an bài của Thần ở tầng thứ cao hơn, vì thế tất cả đều đang thực thi quy luật thiện ác hữu báo.
(5) Tin tưởng năng lực, đẳng cấp và thể hệ của Thần, khi chứng thực quy luật thiện ác hữu báo đòi hỏi phải nghiêm túc cẩn trọng
Đây là một tín ngưỡng sâu sắc hơn nữa vào quy luật thiện ác hữu báo. Văn hóa Trung Hoa còn nhận thức được rằng, Thần cũng có phân chia tầng cấp. Vì thiện ác hữu báo là quy luật căn bản trong thiên địa vũ trụ, vậy nên khi Thần thực hiện quy luật thiện ác hữu báo đương nhiên cũng sẽ giám sát theo từng tầng. Cũng chính là nói, nếu Thần vi phạm quy luật thiện ác hữu báo, chấp hành không theo lẽ công, hoặc có tồn tại vấn đề nào đó, thì ngay cả Thần cũng sẽ bị xử lý. Vậy nên Thần cũng vô số tầng thứ và thể hệ từ trên xuống dưới mà nhân loại chúng ta không thể hình dung ra được, nó là một thể hệ hoàn chỉnh và cự đại.
Vì nhận thức trong văn hóa dân tộc Trung Hoa đối với khái niệm “Thần” được xây dựng trên cơ sở “quy luật thiện ác hữu báo, thực hiện như thế nào, duy hộ như thế nào, quản lý như thế nào”, cho nên cách nhận thức về “Thần” của họ bao hàm trong đó thành phần lý tính sâu sắc. Trong văn hóa Trung Hoa, Thần là một sinh mệnh vô cùng to lớn với đặc trưng chủ yếu bao gồm ít nhất bốn phương diện sau:
Thứ nhất: Biểu hiện đặc tính vị thiện. Đây là đặc tính chung của tất cả các vị Thần.
Thứ hai: Có năng lực siêu thường (vượt ra khỏi nhân loại). Ví dụ, đặc điểm của nhân loại là “Họa hổ họa bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm” (Tạm dịch: vẽ hổ thì vẽ da hổ thì được chứ khó có thể vẽ xương, nhận biết con người thì nhận biết được mặt người nhưng không biết được tâm của họ thế nào), nhưng Thần có thể biết được từng ý từng niệm của con người, vậy nên mới có câu “Nhân tâm sinh nhất niệm, thiên địa tận giai tri”, nghĩa là từng suy nghĩ của con người trời đất đều biết cả. Đó chính là năng lực của Thần, cũng là biểu hiện sự tồn tại của Thần. Thêm vào đó, trong quá trình thực hiện quy luật thiện ác hữu báo, các vị Thần dựa theo chức trách của mình mà thực thi công việc, có thể quyết định vận mệnh họa phúc của các loại sinh mệnh mà họ phụ trách (như người, quỷ, các loại súc vật, v.v.), đó cũng là năng lực của Thần.
Thứ ba: Mỗi vị thần đảm nhận một chức trách và phối hợp với nhau dựa trên chức trách của mình. Giữa các vị Thần với nhau có sự phân công trách nhiệm khác nhau, hình thành nên một hệ thống phối hợp lẫn nhau.
Thứ tư: Thần có tồn tại quan hệ tầng thứ nhất định, giữa họ có thể có sự khác biệt về tầng thứ.
(6) Biết tuân theo quy luật thiện ác hữu báo, hiểu được việc tu đức và tôn kính chính Thần, tránh xa tà ma
Dân tộc Trung Hoa đã hiểu được rằng, nếu thiện ác hữu báo là quy luật căn bản trong thiên địa vũ trụ, thì con người nên chủ động tuân theo quy luật thiện ác hữu báo, chủ động làm một người lương thiện và thiện lương hơn nữa. Bởi thế, dân tộc Trung Hoa hết sức coi trọng việc tu đức. Có được như vậy là nhờ tin tưởng rằng thiện ác hữu báo là quy luật căn bản trong vũ trụ và vận dụng ngay chính quy luật này. Đây là trí tuệ sâu dày của dân tộc Trung Hoa.
Nhưng thế nào là lương thiện? Làm sao để tu đức? Vấn đề này có lúc đáp án rất chuẩn xác, cũng có khi bị hiểu lầm, mê hoặc, đôi lúc gặp phải khó khăn không biết lựa chọn ra sao. Vì để bản thân phù hợp hơn nữa quy luật thiện ác hữu báo, cho nên văn hóa Trung Hoa hiểu rằng cần phải tôn kính chính Thần, tránh xa tà ma.
Như vậy đâu là chính Thần? Văn hóa Trung Hoa đã chỉ ra, chính Thần chính là những vị Thần bảo cho con người biết quy luật thiện ác hữu báo, lại còn giúp con người bảo trì sự lương thiện, chú trọng đạo đức, dụng tâm tu hành. Văn hóa truyền thống Trung Hoa để lại lời răn dạy rằng: Cần phải tôn kính chính Thần. Vậy chúng ta nên tôn kính chính Thần như thế nào đây? Đầu tiên là bản thân phải tuân thủ theo giáo huấn của Thần, như vậy Thần sẽ vui mừng. Trên cơ sở đó, bản thân lại thể hiện sự chân thành và lòng tôn kính, Thần sẽ càng vui mừng hơn. Thế nhưng, nếu bạn lại biến Thần thành đối tượng nhận hối lộ, cho rằng Thần nhận cung phụng (cúng dường) rồi liền ban phúc cho mình, thì đó chính là hiểu sai, thậm chí là lăng mạ chính Thần.
Thế tà ma thì sao? Văn hóa Trung Hoa chỉ ra rằng, cái gọi là tà ma chính là sở hữu năng lực siêu việt nhân loại (ở điểm này thì gần giống như Thần), nhưng nó lại dạy con người tà pháp, dẫn con người đi theo đường tà. Trong vũ trụ vì sao lại có tà ma? Đây là đạo lý mà tại tầng rất cao mới có thể thực sự hiểu rõ được, văn hóa Trung Quốc dùng câu “Nhất âm nhất dương chi vị đạo” (1) để khải thị. Trong vũ trụ xác thực là có tà ma. Thể hiện ở xã hội nhân loại có thể là tà giáo hoặc một người cụ thể nào đó dạy con người làm việc ác, họ sử dụng những công cụ và sách vở tà dâm v.v., đều là những biểu hiện của tà ma.
Văn hóa Trung Quốc có thái độ thế nào đối với tà ma? Trong văn hóa Trung Hoa có một đạo lý gọi là “Chính tà bất lưỡng lập” (2). Một mặt, từ an bài của thiên thượng và quy luật vận hành của vũ trụ mà nói, chính là “Nhất âm nhất dương chi vị đạo”, nhưng từ việc làm người mà nói, chính là nên phải tôn kính chính Thần, tránh xa tà ma. Nói một cách đơn giản, văn hóa truyền thống Trung Hoa dạy bảo con người thái độ đối đãi với tà ma chính là: Phải tránh xa, không tiếp xúc. Cũng bởi vì văn hóa Trung Hoa có thái độ dứt khoát đối với tà ma, do vậy những tà ma, tà pháp, tà vật, tà thư dạy con người làm điều tà ác không xuất hiện nhiều, đa phần chúng đều được lưu truyền một cách lén lút.
(7) Hiểu được thể hiện vĩ đại hơn của quy luật thiện ác hữu báo, tin tưởng vào sự tồn tại của tu luyện
Truyền thống Trung Hoa coi trọng đạo đức, hiểu được việc tu đức, đó là biểu hiện của việc tin tưởng thành kính vào quy luật thiện ác hữu báo. Tuy nhiên, lý giải của dân tộc Trung Hoa đối với quy luật thiện ác hữu báo không chỉ giới hạn như vậy. Nhờ các vị Thần Phật chiếu cố và khải thị, cách lý giải đối với quy luật thiện ác hữu báo trong văn hóa Trung Hoa đạt đến trình độ cao hơn, sâu hơn: Tin tưởng vào sự tồn tại của tu luyện, tin tưởng con người có thể tu thành Thần, Tiên, Phật.
Điều này tất nhiên được thể hiện trong lý giải sâu sắc của văn hóa dân tộc Trung Hoa đối với quy luật thiện ác hữu báo, nhưng thực ra đó là ân điển của thượng thiên vũ trụ dành cho các dân tộc, vùng đất và nhân dân Trung Hoa. Đó là phương thức triển hiện quy luật thiện ác hữu báo vĩ đại hơn, thể hiện tại vùng đất Trung Hoa rộng lớn, từ đó khải thị cho người dân Trung Quốc, thậm chí đến cả toàn nhân loại.
Văn hóa truyền thống Trung Hoa nhận thức tu luyện như thế nào? Thông qua sự khải thị của Thần, văn hóa Trung Hoa đã nhận thức được rằng trong vũ trụ tồn tại sự phân chia về tầng thứ của sinh mệnh, tồn tại các sinh mệnh cao cấp như Thần Phật. Chỉ có những sinh mệnh cao cấp thiện lương hơn, thuần tịnh hơn, như Phật, Đạo, Thần, Tiên v.v., mới có thể hưởng thụ niềm hạnh phúc, hưởng được thọ mệnh vĩnh hằng lâu dài mà nhân loại không thể nào có được. Đây cũng là một phương diện thể hiện sâu sắc hơn của quy luật thiện ác hữu báo trong thiên địa vũ trụ.
Trên cơ sở đó, văn hóa Trung Hoa tin vào tu luyện, cũng chính là: Một người ban đầu không được thuần tịnh hoặc thiện lương cho lắm, nếu người này nghiêm chỉnh tuân thủ theo yêu cầu của sinh mệnh cao cấp, nỗ lực trừ bỏ hết tất cả tư tưởng và hành vi không tốt của mình, thì người ấy có thể nhận được sự cứu độ của sinh mệnh cao cấp trong vũ trụ, khiến bản thân thực sự đạt đến tiêu chuẩn của sinh mệnh cao cấp, từ đó siêu xuất vượt khỏi tầng thứ sinh mệnh ban đầu, từ “Người” thăng hoa thành Phật, Đạo, Thần, Tiên cao cấp hơn.
Trung Quốc thời cổ đại có vô số các nhân vật tu luyện cùng với những câu chuyện cổ và danh thắng liên quan tới họ được lưu truyền cho đến nay đã để lại cho người đời sau rất nhiều khải thị và chứng kiến.
(Còn tiếp)
Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/291086
Ghi chú: (1) “Nhất âm nhất dương chi vị đạo” (一陰一陽之謂道): Hiểu theo nghĩa đen tức là một âm một dương được gọi là đạo. Theo Đạo gia thì thân thể người đồng thời có âm và dương tồn tại.
(2)Chính tà bất lưỡng lập (正邪不两立): Có nhiều cách giải thích khác nhau. Chiểu theo nội dung bài viết, người dịch mạn phép đưa ra kiến giải của bản thân. “Chính tà bất lưỡng lập” có nghĩa là chính và tà là hai lập trường khác nhau, cho nên chúng không thể đứng cùng nhau được.
— Cội rễ của dân tộc Trung Hoa và sự nguy hại của lý thuyết cộng sản —
Tác giả: Kính Tạ Ân
[ChanhKien.org]
II. Cội rễ của dân tộc Trung Hoa đạt tới trình độ sâu rộng
“Cội rễ” là một từ dùng để ví von, lấy vật hữu hình để ví dụ cho sự việc vô hình, nội hàm ở đây là chỉ mức độ tin tưởng vào quy luật thiện hữu thiện báo của dân tộc Trung Hoa. Cái gọi là “Cội rễ của dân tộc Trung Hoa đạt tới trình độ sâu rộng” cũng tương tự như vậy, nó là một cụm từ dùng để ví von, chỉ sự tin tưởng vào “quy luật thiện ác hữu báo” của dân tộc Trung Hoa đã đạt tới độ cao, độ sâu, độ rộng, độ dày, độ phong phú, mức độ lâu đời,… như thế nào.
Hiện nay, khi nhắc tới thiện ác hữu báo, có người rất tin và có người không tin lắm. Nhưng cho dù mức độ tin tưởng của họ đến đâu, thì cũng không bằng lòng tin của con người trong truyền thống Trung Hoa, vốn vừa sâu sắc, vừa cao siêu. Bài viết này sẽ trình bày theo thứ tự từ đơn giản tới thâm sâu, từ bề mặt tới cao siêu.
(1) Sự tin tưởng mang tính khái niệm
Sự tin tưởng mang tính khái niệm là loại trạng thái nhận thức nông cạn nhất, cũng chính là nhận thức một cách khái quát rằng thiện hữu thiện báo là Pháp lý căn bản trong thiên địa, vũ trụ. Kiểu trạng thái nhận thức này được thể hiện rất nhiều trong văn hóa Trung Quốc. Lão Tử giảng: “Thiên đạo vô thân, thường dữ thiện nhân”, tạm dịch là đạo của trời không kể thân quen, thường giúp người lương thiện, đây chính là một trong những cách nói điển hình của quan niệm này. Trong rất nhiều câu chuyện lịch sử được lưu truyền trong dân gian, trong các tình tiết hý kịch mà các văn nhân sáng tạo, đều chứa đựng sự tán thành với quan niệm thiện ác hữu báo.
(2) Tin vào thiện ác hữu báo sẽ biểu hiện trong cuộc đời của mỗi người và được truyền thừa trong gia tộc
Đây là nhận thức đối với hình thức thể hiện của quy luật thiện ác hữu báo, nó đã thâm nhập tới tầng thứ “Hành vi thiện ác của mỗi cá nhân sẽ là báo ứng phúc họa trong một đời của bản thân người đó, và trong các thế hệ con cháu của gia tộc đó”. Biểu hiện này có thể trực tiếp nhìn bằng mắt thường, cho nên nó thuộc loại biểu hiện bề mặt nhất. Loại nhận thức này được thể hiện trong lý luận của Đạo gia và Nho gia, là tín ngưỡng cơ bản trong tầng lớp dân chúng Trung Quốc. Trong Chu Dịch nói rằng: “Tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương”, có nghĩa là nhà nào hay làm điều thiện thì nhiều phúc, nhà nào hay làm điều bất thiện thì gặp nhiều tai ương, đây chính là một trong những cách nói điển hình của quan niệm này.
Do quan niệm này đã dẫn khởi dân chúng chú trọng vào việc tích đức hành thiện, mục đích đầu tiên là vì tương lai của bản thân. Nhưng vì văn hóa Trung Hoa vốn có truyền thống coi trọng gia tộc, vậy nên rất nhiều người tích đức hành thiện cũng là vì lý do đó, hoặc thậm chí chủ yếu là vì gia tộc mình. Những người mang trong mình kiểu quan niệm này hăng say thủ đức, nỗ lực làm việc thiện, là vì muốn để lại phúc đức cho con cháu; họ không dám làm việc ác, nhất là không dám làm việc đại ác, vì họ sợ để lại tai họa cho con cháu trong gia tộc. Loại nhận thức, suy nghĩ, quyết định, phương thức hành động này đã tạo nên một trong những đặc trưng quan trọng của nền văn minh Trung Hoa.
(3) Tin tưởng thêm một bước nữa: Sinh mệnh luân hồi, kiếp trước định kiếp sau
Đây là nhận thức sâu hơn về quy luật thiện ác hữu báo, là nhận thức được trong rất nhiều sinh mệnh có tồn tại các chủng quan hệ như báo ơn, báo oán, trả nợ, v.v. Trong quá trình kết toán, trả hết nợ nần qua lại giữa các mối quan hệ ấy cũng tuân theo quy luật thiện ác hữu báo. Nhận thức cụ thể là bản chất của sinh mệnh không giới hạn ở thân thế, nhục thể, mà nguồn gốc của nó là ở linh hồn. Cho nên có tồn tại việc linh hồn chuyển sinh, hơn nữa trong quá trình chuyển sinh, thì tất ca việc thiện hay việc ác mà người đó làm đều phải hồi báo. Vì vậy mới có câu “Nhất ẩm nhất trác, mạc phi tiền định” ý nói số mệnh của một người đã được định sẵn, việc thiện hay việc ác làm từ đời trước sẽ quyết định họa phúc của đời này và các hoàn cảnh gặp phải.
Tín ngưỡng về “Sinh mệnh luân hồi, kiếp trước định kiếp sau” thể hiện chủ yếu trong lý luận của Phật gia, trong lý luận của Đạo gia cũng có, được người dân Trung Hoa tin tưởng rộng rãi.
(Còn tiếp)
Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/291063
Kể từ khi chính quyền Cộng sản đầu tiên là Liên Xô ra đời đến nay đã tròn 100 năm. Chỉ vỏn vẹn một thế kỷ, Chủ nghĩa Cộng sản đã gây ra cái chết của hơn một trăm triệu người. Ngay khi vừa mới ra đời, Đảng Cộng sản đã giương cao lá cờ tranh giành nhân loại với Thần, hô hào: “Từ xưa đến nay vốn không hề có Chúa cứu thế”, nên cần phải “đập tan thế giới cũ”.
Chủ nghĩa Cộng sản xuất sinh từ đâu? Vì sao nó lại xuất hiện trong vũ trụ này? Bản chất của Cộng sản rốt cuộc là gì? Kết cục sẽ ra sao? Lời giải cho những vấn đề căn bản này vẫn còn nhiều người chưa minh tỏ, và hiện tại chính là thời điểm để vén bức màn ẩn đố này.
Bản chất của Chủ nghĩa Cộng sản là một con “tà linh”, nó do “hận” và vật chất bại hoại của vũ trụ tầng thấp cấu thành. Nó căm hận và muốn hủy diệt nhân loại. Nó không thỏa mãn ở việc giết chết thân xác thịt của con người, bởi lẽ cái chết của thân xác thịt hoàn toàn không phải là cái chết thực sự của sinh mệnh, nguyên thần (linh hồn) còn có thể luân hồi chuyển sinh. Nhưng khi đạo đức của một người bại hoại đến mức không thể cứu được nữa, thì nguyên thần sẽ bị tiêu hủy triệt để trong thống khổ vô tận, đó mới là điều đáng sợ nhất, là sự tử vong thật sự của sinh mệnh. “Tà linh cộng sản” chính là muốn khiến toàn thể nhân loại đều rơi vào vực sâu vạn kiếp bất phục (muôn đời muôn kiếp không thể quay trở lại).
Năm 1989, bức tường Berlin sụp đổ, sau đó phe Chủ nghĩa Cộng sản Đông Âu và Liên Xô nhanh chóng giải thể, dường như toàn thế giới đều nhận định rằng “Chiến tranh lạnh” đã kết thúc, hình thái ý thức Chủ nghĩa Cộng sản đã không thành công. Ngay cả bản thân các quốc gia cộng sản còn sót lại cũng cảm thấy nguy cấp vô cùng. Mà trên tình huống thực tế thì tư tưởng và nhân tố của Chủ nghĩa Cộng sản vốn có giáo nghĩa và diện mạo thay đổi liên tục lại vẫn có thể vươn tay tàn sát trên toàn cầu. Hiện vẫn có các quốc gia vẫn công khai thừa nhận rằng mình là chủ nghĩa xã hội như Trung Quốc, Triều Tiên, Cu Ba, Việt Nam, cũng có nhiều nước châu Phi và Nam Mỹ mượn lá cờ dân chủ và cộng hòa để triển khai thực hiện chủ nghĩa xã hội. Thậm chí rất nhiều quốc gia dân chủ châu Âu và Bắc Mỹ bị nhân tố chủ nghĩa cộng sản ăn mòn nghiêm trọng hơn mà không tự biết.
Cho dù là bạo lực bành trướng hay là thẩm thấu âm thầm, thì phương pháp triệt để hủy diệt nhân loại của “tà linh cộng sản” chính là phá hoại văn hóa mà Sáng Thế Chủ đặt định để cứu người vào lúc cuối cùng. Nhân loại mất đi loại văn hóa này, thì chính là mất đi tiêu chuẩn làm người, trong con mắt của Thần thì đã trở thành những con thú mang hình người, không chỉ mất đi ước thúc về đạo đức, tuột dốc nhanh chóng, mà thậm chí còn không cách nào lý giải thiên cơ được tiết lộ khi Sáng Thế Chủ hạ thế độ nhân, nên cũng mất đi cơ hội được cứu độ khi đại nạn đến. Đây là kiếp nạn lớn nhất của sinh mệnh —bị tiêu hủy vĩnh viễn— cũng là mục đích cuối cùng của “tà linh cộng sản.”
Xuất phát từ sự trân quý vô hạn đối với sinh mệnh do Thần tạo ra, với sự lo lắng thiết tha cho nhân loại, chúng tôi viết ra cuốn sách này “Mục đích cuối cùng của Chủ nghĩa Cộng sản”, phân tích và vạch trần một cách hệ thống cho thế nhân âm mưu thiên đại của “tà linh cộng sản”, đó là thông qua việc phá hoại văn hóa, phá hoại đạo đức mà hủy diệt nhân loại.
Trong các dân tộc khác nhau, đều có lưu truyền truyền thuyết rằng cuối cùng Thần sẽ đến cứu vãn con người. Nhân loại đã đi đến bước ngoặt quan trọng trong lịch sử vũ trụ, mà lúc này tà giáo cộng sản chính là chướng ngại lớn nhất cho việc con người được cứu vãn. Do vậy, chúng tôi thực sự cho rằng, nhất định phải vạch trần triệt để mục đích cuối cùng và thủ đoạn của tà linh, để cho nhân loại có thể dựa vào phán đoán của bản tính lương tri mà vứt bỏ tà giáo cộng sản, giải thể các tổ chức cộng sản một cách hòa bình và thanh lý các nhân tố tà ác của Chủ nghĩa Cộng sản một cách hệ thống, để nghênh đón tân thế kỷ của nhân loại.
Cuốn sách này được phân thành hai phần: Phần đầu —“Mục đích cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản (Phần Trung Quốc)”— và Phần sau —“Mục đích cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản (Phần Thế Giới)”— Trước hết xin được đăng phần đầu (Phần Trung Quốc), phần sau sẽ được đưa ra không lâu sau này, kính mời các bạn đón xem.
Xin được gửi tặng cuốn sách này tới tất cả những ai thành tâm hy vọng dân tộc Trung Hoa sẽ văn minh thiện lương, phồn vinh giàu mạnh!
Xin được gửi tặng cuốn sách này cho tất cả những ai quan tâm đến vận mệnh của nhân loại!
Ban Biên tập Cửu Bình.
Ngày 18/11/2017.
— Cội rễ của dân tộc Trung Hoa và sự nguy hại của lý thuyết cộng sản —
Tác giả: Kính Tạ Ân
[ChanhKien.org]
Phần thượng: Dân tộc Trung Hoa vì sao có thể trường tồn vượt qua kiếp nạn?
I. Dân tộc Trung Hoa là có cội rễ
(1) Dân tộc Trung Hoa là gì? “Trung Hoa” là gì?
“Dân tộc Trung Hoa” là một khái niệm vừa mang tính chính trị, vừa mang tính lịch sử và văn hóa. Bài viết này chỉ thảo luận về nó dưới góc độ lịch sử và văn hóa. “Dân tộc Trung Hoa” là tên gọi chung cho các nhóm dân tộc thừa nhận và đưa văn hóa Trung Hoa đi vào thực tiễn, những người này đã trải qua lịch sử 5000 năm, thậm chí còn lâu đời hơn.
Bốn chữ “Dân tộc Trung Hoa” được sử dụng lần đầu tiên từ thời Lương Khải Siêu. Vào thời cổ đại, “Trung Hoa” thường được gọi tắt là “Trung Quốc”. Kể từ thời Hoàng Đế Nghiêu Thuấn trở đi, hàm nghĩa của từ “Trung Quốc” chính là “Trung tâm chi quốc – Quốc gia ở trung tâm”, bao hàm ý nghĩa ưu việt, tốt đẹp hơn so với các khu vực lân cận. Vậy, nội hàm của sự “ưu việt” này là gì? Phải chăng là một khái niệm đơn giản về “ưu thế địa lý” như “chiếm cứ lãnh thổ, nằm ở trung tâm của bốn phương”? Thật ra, không phải vậy.
Cảm giác ưu việt được thể hiện qua từ “Trung Quốc”, đó là “vì tự mình có thể gìn giữ và truyền thừa nền văn hóa ưu tú, nên xứng đáng được thừa hưởng vùng đất tươi đẹp nằm ở trung tâm của bốn phương”. Khái niệm “ưu việt kép”, “ưu việt phức hợp” này lấy “ưu việt văn hóa” làm bản chất bên trong và “ưu việt địa lý” làm biểu tượng bên ngoài. Từ thời Hoàng Đế đến triều nhà Thanh, Trung Quốc luôn được xem như trung tâm của bốn phương, có thời kỳ còn được tôn vinh là “Thiên triều thượng quốc”, thể hiện chính là vị thế ưu việt kép, ưu việt phức hợp lấy ưu việt văn hóa làm căn bản.
Cũng chính là nói, đặc trưng chủ yếu nhất của dân tộc Trung Hoa là “Văn hóa Trung Hoa”. “Văn Hóa Trung Hoa” bao gồm những gì? Đầu tiên là chỉ nền văn minh đạo đức, lễ nghi, sinh sản và giáo hóa được truyền thụ bởi các bậc Thánh hiền như Phục Hy, Hoàng Đế. Từ thời kỳ Nghiêu Thuấn đến Hán Đường, nếu có nơi nào mà các bậc quân vương, quần thần và người dân có thể tôn kính, học hỏi và thực hành nền văn minh này, thì được coi là “Trung Quốc”, “Hoa”, “Hạ”, ngược lại là “man di”. Do đó, phần nội dung này chính là hạt nhân, là căn bản của văn hóa Trung Hoa.
Ngoài ra, trong quá trình diễn biến lịch sử lâu dài, nền văn minh do Phục Hy, Hoàng Đế và các bậc Thánh hiền truyền thụ đã thể hiện ra sức hút, sức đồng hóa và dung hợp mạnh mẽ, đồng thời cũng hấp thu một số nền văn hóa khác. Một mặt, dân tộc Trung Hoa có thể giữ gìn được cốt lõi văn minh vốn có của mình và truyền lại cho các thế hệ trong bộ tộc. Mặt khác, họ cũng có thể không ngừng tiếp thu những tinh túy của nền văn minh xung quanh, từ đó khiến cho bản thân nền văn minh Trung Hoa cũng ngày càng trở nên sâu sắc và hoàn chỉnh hơn.
Đồng thời, khu vực mà nền văn hóa Trung Hoa, văn minh Trung Hoa có sức ảnh hưởng, chiếu sáng cũng đang mở rộng và gia tăng. Dân tộc Trung Hoa có ít nhất năm nghìn năm văn minh lịch sử; trong đó, khu vực mà nền văn minh Trung Hoa chiếu sáng cũng từ Trung Nguyên, Côn Luân nối tiếp mở rộng đến vùng Cửu Châu, sau đó mở rộng sang Đông Á, Châu Á, và thậm chí là cả thế giới. Khu vực nó bao phủ ngày càng rộng lớn, số người dân được giáo hóa ngày càng nhiều; cũng ngày càng có nhiều bộ tộc, nhóm người không ngừng hòa nhập vào trong chỉnh thể của dân tộc Trung Hoa.
(2) Tại sao nói dân tộc Trung Hoa là có cội rễ?
Xuyên suốt lịch sử nhân loại cho đến nay, đã từng xuất hiện nhiều nền văn minh huy hoàng, ví như nền văn minh Maya cổ, Ấn Độ cổ, Babylon cổ, Ai Cập cổ, v.v. Hầu hết các nền văn minh đều đã trôi đi theo dòng chảy cuồn cuộn của lịch sử. Trong số các nền văn minh cổ đại, duy chỉ có nền văn minh Trung Hoa là ví dụ thực tế tồn tại đến ngày nay, và vẫn tiếp tục sinh tồn một cách sống động. Vậy tại sao các nền văn minh khác đều biến mất, chỉ có nền văn minh Trung Hoa mới có thể tồn tại đến ngày nay?
Khi mưa gió hoành hành, hay khi hạn hán kéo dài hoặc thiên tai giáng xuống, những cây cỏ bám rễ nông thường sẽ chết, còn những cây cổ thụ bám rễ sâu thường có thể vượt qua thảm họa và tiếp tục sống, do đó những cây cổ thụ bám rễ sâu được gọi là “có cội rễ”. Phải chăng trong văn hóa truyền thống Trung Hoa có tồn tại một yếu tố mạnh mẽ nào đó thúc đẩy dân tộc Trung Hoa có thể sinh sôi không ngừng, trường tồn qua kiếp nạn? Câu trả lời là có. Đó chính là “cội rễ của nền văn minh Trung Hoa”.
Cái gọi là “cội rễ của nền văn minh Trung Hoa”, hay còn gọi là “cội rễ của dân tộc Trung Hoa”, là những yếu tố mà dân tộc Trung Hoa đã thể hiện trong quá trình phát triển văn minh, có thể khiến nền văn minh Trung Hoa, dân tộc Trung Hoa tồn tại mãi mãi.
(3) Cội rễ của dân tộc Trung Hoa là gì? Nó được thể hiện ở những phương diện nào?
Văn hóa truyền thống của dân tộc Trung Hoa luôn có “niềm tin vững chắc vào quy luật thiện ác hữu báo”. Đây chính là cội rễ của dân tộc Trung Hoa, là suối nguồn nội tại mang lại sức sống vô tận cho dân tộc Trung Hoa.
Sự thể hiện của “cội rễ” này trong văn hóa Trung Hoa có thể được chia thành ba phương diện dựa trên góc độ Tam tài (Thiên-Địa-Nhân): cụ thể là “Thiên kinh”, “Địa nghĩa”, “Nhân sự” (việc đời).
Trong đó, “Thiên kinh” là chỉ những quy định, khải thị, vai trò chủ đạo của Thiên thượng đối với xã hội nhân loại, văn hóa nhân loại; “Địa nghĩa” là chỉ hệ thống chế độ, hệ thống quy phạm được hình thành trong xã hội nhân loại dưới sự khải thị và quy định của Thiên thượng; “Nhân sự” là chỉ hành vi, thái độ thực tế mà con người thực hiện. Cội rễ của dân tộc Trung Hoa sớm đã bén rễ sâu trong ba phương diện này.
Về tình huống bám rễ của ba phương diện này, có thể nói ngắn gọn như sau: Bám rễ ở phương diện “Địa nghĩa”, nghĩa là trong suốt 5000 năm qua, niềm tin, tín ngưỡng đối với quy luật thiện ác hữu báo sớm đã thấm nhuần trong chỉnh thể nền văn hóa dân tộc Trung Hoa, xuyên suốt trong mọi lĩnh vực giao lưu quốc tế, hoạt động quốc gia và đời sống xã hội trong các thời kỳ khác nhau. Có thể khái quát phương diện “Địa nghĩa” này bằng từ: “Niềm tin kiên định”.
Bám rễ ở phương diện “Nhân sự”, cũng chính là phương diện lưu truyền nội dung văn hóa, có nghĩa là trong suốt 5000 năm qua, văn hóa Trung Hoa đã rất chủ động duy trì, kiểm chứng và củng cố niềm tin sâu sắc hơn của mỗi cá nhân, dân tộc và quốc gia đối với quy luật “thiện ác hữu báo”. Có thể tóm lược phương diện “Nhân sự” này bằng từ “chủ động duy hộ”.
Bám rễ ở phương diện “Thiên kinh”, có nghĩa là trong suốt 5000 năm qua, do niềm tin kiên định vào quy luật “thiện ác hữu báo” và chủ động tuân theo quy luật này, dân tộc Trung Hoa và văn hóa Trung Hoa đã nhận được sự khải thị, bảo hộ và ban phúc từ Thiên thượng; hơn nữa sự khải thị, bảo hộ và ban phúc này rất hoàn chỉnh và sâu rộng, vì vậy văn hóa Trung Hoa mới có thể phát triển không ngừng. Nếu tóm lược phương diện “Thiên kinh” này bằng một từ, có thể nói là “ban phúc sâu rộng”.
(4) Cội rễ của dân tộc Trung Hoa khởi tác dụng gì để bảo vệ cho dân tộc này?
Ba phương diện của cội rễ dân tộc Trung Hoa được kể trên, tức là “niềm tin kiên định” về phương diện “Địa nghĩa”, “chủ động duy hộ” về phương diện “Nhân sự” và “ban phúc sâu rộng” về phương diện “Thiên kinh”, cũng tạo thành một vòng tuần hoàn lành mạnh thúc đẩy lẫn nhau, củng cố lẫn nhau và làm sâu sắc lẫn nhau. Tổng thể môi trường văn hóa xã hội cấu thành nên “Địa nghĩa”, thúc đẩy phương diện “Nhân sự” trong việc lưu truyền văn hóa, khiến nó coi trọng hơn nữa việc chứng thực và duy hộ “thiện ác hữu báo”. Điều này lại có thể thúc đẩy đạo đức xã hội ngày càng tốt hơn, dẫn đến việc ngày càng thuận Thiên ý, càng có thể nhận được sự phù hộ và điểm hóa từ Thiên thượng – cũng chính là “Thiên kinh”. Đây là vòng tuần hoàn lành mạnh của ba phương diện.
Do vòng tuần hoàn lành mạnh của ba phương diện này, đặc biệt là sự tương tác và cộng hưởng lẫn nhau giữa sự phù hộ từ Thiên thượng và những nỗ lực của chính dân tộc Trung Hoa, đã tạo nên sự cộng hưởng lành mạnh, khiến cho văn hóa Trung Hoa có thể đạt đến cảnh giới cao hơn. Điều này thể hiện ở rất nhiều phương diện trong văn hóa Trung Hoa, chẳng hạn như: văn hóa Trung Hoa đã dạy bảo cho con người chân lý sâu sắc rằng “Thiên tác nghiệt, do khả vi”.
“Thiên tác nghiệt, do khả vi” nghĩa là gì? Đây là một câu nói truyền lại từ thời thượng cổ Trung Quốc, nói một cách đơn giản là “nếu đức hạnh đủ lớn, thì có thể tránh được tai họa từ trên trời giáng xuống”. Một phần những tai họa mà nhân loại gặp phải là xảy ra sau sự biến đổi của các nhân tố tổng thể ở một tầng thứ nhất định trong vũ trụ, từ đó mà phát sinh tai nạn. Sự biến đổi tổng thể của vũ trụ này cũng được thể hiện trong xã hội nhân loại, thể hiện ở chỗ đạo đức xã hội đang băng hoại, những người đã bị tha hóa trầm trọng sẽ bị đào thải. Do nhân tố đào thải này đến từ một số tầng thứ nhất định trên Thiên thượng, nên được gọi là “Thiên tác nghiệt”. Tuy nhiên, ngay cả khi là thời khắc “Thiên tác nghiệt”, nếu một số người vẫn còn có thể giữ gìn phẩm chất đạo đức rất tốt, những người này vẫn có thể thoát khỏi kiếp nạn. Bởi “Thiên thượng tác nghiệt”, mà “nhân do khả vi”, cho nên đây là một điều rất khó mà tin nổi.
Tuy nhiên, trong văn hóa Trung Hoa, điều này không phải là không thể tin được. Bởi vì văn hóa Trung Hoa có khai thị sâu sắc về Pháp lý vũ trụ. Mặc dù kiếp nạn do “Thiên tác nghiệt” gây ra, nhưng cũng chỉ đến từ một tầng thứ nhất định, một phạm vi nhất định trong vũ trụ. Mà vũ trụ ở tầng thứ cao hơn, phạm vi rộng lớn hơn thì không theo đó mà diệt vong. Do đó, trong kiếp nạn, vẫn có những người có phẩm chất đạo đức thực sự tốt có thể được lưu lại, cũng không có gì lạ.
Văn hóa Trung Hoa không chỉ giảng về đạo lý “Thiên tác nghiệt, do khả vi”, mà còn triển hiện cụ thể đạo lý này trong thực tiễn. Hơn 4000 năm trước, kiếp nạn đại hồng thủy đã xảy ra trên toàn cầu, khi đó người phương Tây chỉ còn sót lại gia đình Noah và một số ít những người khác, nền văn minh phương Tây về cơ bản đã bị hủy diệt. Kiếp nạn này cũng ảnh hưởng đến Trung Quốc, tương ứng vào thời kỳ vua Nghiêu, trước khi Đại Vũ trị thủy. Khi đó, nhiều người ở Trung Quốc còn sống sót và chỉnh thể nền văn minh Trung Hoa vẫn được bảo tồn về sau.
(5) Thực chất của cội rễ dân tộc Trung Hoa
Những điều đã nói ở trên chính là cội rễ của dân tộc Trung Hoa. Vậy thì bản chất của cội rễ này là gì? Trên thực tế, đó là việc dân tộc Trung Hoa luôn chủ động đồng hóa với quy luật “thiện ác hữu báo” vốn tồn tại trong vũ trụ. Thiện ác báo ứng là một quy luật vốn đã tồn tại trong vũ trụ. Có đồng hóa với quy luật này hay không? Đây là sự lựa chọn của mỗi dân tộc trong lịch sử. Nhờ không cô phụ sự dẫn dắt, khải thị và truyền thụ của Thiên thượng, dân tộc Trung Hoa đã lựa chọn, hơn nữa ngày càng kiên định thái độ đồng hóa với quy luật thiện ác hữu báo này, vì vậy đã đạt được rất nhiều kết quả tốt đẹp. Những kết quả tốt đẹp này được thể hiện ở nhiều phương diện. Nổi bật nhất là “có thể vượt qua những kiếp nạn trong vũ trụ mà trường tồn”, cũng chính là khiến dân tộc Trung Hoa, văn hóa Trung Hoa có thể trường tồn qua các kiếp nạn cho đến ngày nay, trở thành nền văn minh cổ duy nhất còn tồn tại trên thế giới. Ngoài ra, còn có nhiều phương diện tốt đẹp khác biểu hiện ra bên ngoài, ví dụ: hình tượng của văn hóa Trung Hoa – quang minh, bác đại; dưới ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa – có thể dẫn dắt sự thăng hoa của sinh mệnh; vị thế của văn hóa Trung Hoa, dân tộc Trung Hoa, đất nước Trung Hoa nhận được sự tôn trọng, thậm chí ngưỡng mộ từ nhiều nước gần xa, v.v.
Bản chất sâu xa hơn của cội rễ văn hóa Trung Hoa chính là một lần triển hiện, hiện thực hóa quy luật thiện ác hữu báo của vũ trụ trong văn hóa nhân loại. Cái gọi là “thực chất” này chính là bản chất ẩn sau những hiện tượng bề mặt. Đã là như vậy, thì sẽ có khái quát mức độ khác biệt giữa bản chất ban đầu và bản chất sâu sắc hơn. Về thực chất của cội rễ dân tộc Trung Hoa, nếu khái quát từ một góc độ sâu sắc hơn, thì đó cũng là kết quả của việc dân tộc Trung Hoa đã đưa ra lựa chọn đúng đắn dưới sự khải thị của Thiên thượng. Nói cách khác, đây là một lần triển hiện và hiện thực hóa quy luật thiện ác hữu báo của vũ trụ trong văn hóa nhân loại.
Còn có thể khái quát từ một góc độ sâu sắc hơn. Văn hóa Trung Hoa là một ví dụ điển hình cho việc quy luật thiện ác hữu báo của vũ trụ khởi tác dụng chính diện ra sao trong văn hóa và nền văn minh nhân loại. Nói cách khác, Thiên thượng đã chọn vùng đất Trung Hoa, tạo ra dân tộc Trung Hoa, đồng thời ban cho dân tộc Trung Hoa sự khải thị và phước lành bao la, từ đó khiến dân tộc Trung Hoa có được kết quả tốt đẹp tương ứng, để chúng sinh có thể nhìn thấy quy luật thiện ác hữu báo của vũ trụ triển hiện như thế nào trong văn hóa và nền văn minh nhân loại. Nói tóm lại, đây là một minh chứng, một ví dụ điển hình về cách quy luật thiện ác hữu báo của vũ trụ khởi tác dụng chính diện trong văn hóa và nền văn minh nhân loại.
Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/291045
—Cội rễ của dân tộc Trung Hoa và sự nguy hại của lý thuyết Cộng Sản—
Tác giả: Kính Tạ Ân
ChanhKien.org
Gần đây, Trung Quốc đại lục ngày càng xuất hiện nhiều tai nạn thảm khốc, khiến nhiều người thiệt mạng, gây tổn thất cực lớn về tài sản và nhân mạng, thậm chí toàn thế giới cũng không được thái bình. Làm một đệ tử Pháp Luân Đại Pháp, tôi biết rất rõ căn nguyên thật sự của những tai họa này, cũng biết tương lai nhân loại nên đặt hy vọng vào đâu. Do đó, tôi muốn đem một phần hiểu biết của mình nói cho thế nhân biết, mục đích là để cứu càng nhiều người hơn nữa.
Rất nhiều người cho rằng căn nguyên của những tai họa ở Trung Quốc hiện nay và thậm chí cả thế giới chính là Đảng Cộng Sản – đặc biệt là Trung Cộng, tất cả đều bắt nguồn từ việc Trung Cộng thách đấu với các giá trị truyền thống. Cách nói này thật sự rất sâu sắc, nhưng vẫn chưa chạm tới được bản chất thật sự của nó. Bởi vì, chủ nghĩa cộng sản kỳ thực là một cái thòng lọng. Năm 1848, bên bờ biển lớn ở châu Âu, có một người thần bí trong tâm mang nhiều suy nghĩ vẽ một vòng tròn, mưu đồ muốn dùng nó để phủ trùm cả thế giới. Nhưng không ai ngờ rằng, vòng tròn này lại trở thành nhân tố chính thúc đẩy lịch sử toàn thế giới thay đổi trong hơn 100 năm sau đó. Người ta càng không nghĩ rằng, cái vòng tròn này có hai trung tâm trong và ngoài: Liên Xô ngoài mặt khuếch trương thanh thế, nhưng Trung Quốc mới xác thực là trung tâm khởi tác dụng của chủ nghĩa cộng sản.
Làm một đệ tử Pháp Luân Đại Pháp, tôi muốn nói cho mọi người điều này, bất cứ nơi nào mà cái thòng lọng chủ nghĩa cộng sản này chạm tới, tất cả những gì mọi người nhận được đều chỉ là tổn thất mà thôi. Lấy người Trung Quốc làm ví dụ, ai có thể đạt được điều mà họ thật sự mong muốn? Những nông dân đi theo chủ nghĩa cộng sản để đòi quyền sở hữu ruộng đất? Những phần tử tri thức đi theo chủ nghĩa cộng sản đòi dân chủ nhân quyền? Những công nhân chạy theo chủ nghĩa cộng sản đòi quyền làm chủ công xưởng? Cho dù là những người đạt được sự “thành công” trong “cách mạng” và “đấu tranh” cũng là như thế. Thế hệ đỏ thứ nhất thường khó tự bảo vệ cho mình, thế hệ đỏ thứ hai (tầng lớp con cháu của các quan chức cao cấp ở Trung Quốc), thế hệ đỏ thứ ba cũng đồng dạng như thế. Cho đến Mao Trạch Đông, ông ta không chỉ cảm thấy hoảng sợ trong tâm, mà còn không ngừng phát động đấu tranh giai cấp để tự bảo vệ mình mãi cho đến lúc chết. Chẳng phải sau khi ông ta qua đời, thân tín thân nhân của ông đều bị nhốt vào tù, bị chụp mũ phản cách mạng, ngay cái thân xác của ông cũng bị người ta đóng vào hòm, đem trang trí lại, để người khác dùng nó làm ngụy trang, cung cấp “tính hợp pháp” cho kẻ khác sao? Những gì đạt được, ngoại trừ làm hại người dân Trung Hoa, bao gồm tất cả đồng nghiệp và cấp dưới đã từng bên cạnh mình, từ đó tạo ra tội nghiệp cực lớn, thì còn điều gì khác nữa đây? Đối diện với lý thuyết cộng sản và cơ chế vận hành của nó, cùng hết thảy mặt trái của nó, tất cả mọi người đều là người bị hại, bao gồm cả người lãnh đạo cấp cao của nó.
Chủ nghĩa cộng sản thật sự chính là một cái thòng lọng. Đối với dân tộc Trung Hoa mà nói, nó là một giấc mộng hão huyền kéo dài một trăm năm; đối với thế giới mà nói, chính là một cơn ác mộng khoảng hai trăm năm. Bài viết này muốn nói rõ, người vẽ vòng tròn bên bờ Đại Tây Dương năm đó, những điều huyền bí ông ta ôm ấp trong lòng rốt cuộc là gì? Bản chất của cái thòng lọng và sự nguy hại của nó ra sao? Ông ta rốt cuộc từ đâu đến? Khởi tác dụng gì? Rốt cuộc nó có thể đại biểu cho văn hóa Trung Hoa hay không? Nó có thể dung hợp cùng với nền văn hóa Trung Hoa hay không? Và tại sao lại không thể?
Bài viết này trọng tâm vào vấn đề tại sao dân tộc Trung Hoa với nền văn minh 5000 năm có thể trường tồn vượt kiếp nạn. Toàn thế giới và Trung Quốc trong giai đoạn gần đây tại sao liên tiếp gặp tai họa, chúng tôi sẽ nói rõ cách làm thế nào để thoát khỏi cái thòng lọng này, nhanh chóng vượt qua tai họa, khiến nhiều người hơn nữa được cứu. Hy vọng bài viết này có thể giúp ích đối với văn minh Trung Hoa, giúp cho người Trung Quốc và toàn thế giới an định, yên vui.
Mục lục
Lời mở đầu: Mục đích là để cứu được nhiều người hơn
Phần đầu: Dân tộc Trung Hoa vì sao có thể trường tồn vượt qua kiếp nạn
1. Dân tộc Trung Hoa là có cội rễ
2. Cội rễ của dân tộc Trung Hoa đạt tới trình độ sâu rộng
3. Hưởng phúc trời, văn hóa Trung Hoa hàm chứa những nhân tố đặt nền móng vững chắc cho mai sau
4. Văn hóa Trung Hoa vì sao lại bác đại tinh thâm, nguồn gốc và bản chất của nó
Phần giữa: Sự nguy hại của lý thuyết cộng sản
5. Nguồn gốc, bản chất và hình thức biểu hiện của lý thuyết cộng sản
6. Sự nguy hại của lý thuyết cộng sản (1): Phá hủy gốc gác của dân tộc Trung Hoa – Chặt đứt gốc rễ, làm mê muội dân chúng
7. Sự nguy hại của lý thuyết cộng sản (2): Tạo ra thể chế cộng sản – Ma giáo đột lốt chính trị
8. Sự nguy hại của lý thuyết cộng sản (3): Cản trở việc nhân loại được đắc cứu – Bám trụ ở Trung Quốc để mài đao
9. Sự nguy hại của lý thuyết cộng sản (4): Hồng ma dàn trận khắp thế giới – Mượn cớ chứng minh khoa học để giở chiêu trò
10. Sự nguy hại của lý thuyết cộng sản (5): Đóng giả cứu tinh, khiến con người không tỉnh ngộ khi nghe chân tướng
Phần cuối: Khôi phục lại nền văn hóa truyền thống chân chính
11. Hiểu Thiên ý, thành kính và tôn sùng Chủ Thần, duy trì sự đoan chính của văn hóa và tâm linh
12. Nâng cao pháp luật, kiện toàn xã hội, bảo vệ ý chỉ của quốc gia, văn hóa xã hội và Thiên ý đối ứng với nhau
13. Khôi phục văn hóa, đặt nền móng vững chắc cho con người tương lai bảo trì thiện lương, phản bổn quy chân
Kết luận: Cung kính cảm ân Thần Phật, rời xa thù hận, xã hội lành mạnh.
Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/291044